Vừa qua, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đã thông qua 04 án lệ mới gồm một án lệ về dân sự, hai án lệ về kinh doanh thương mại và một án lệ về hành chính. Theo đó:
1. Án lệ số 07/2016/AL về công nhận hợp đồng mua bán nhà được xác lập trước ngày 1/7/1991.
Án lệ này được phát triển từ quyết định giám đốc thẩm số 126/2013/DS/GĐT ngày 23/9/2013 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao về vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sở hữu, sử dụng nhà”, đề cập đến trường hợp Hợp đồng mua bán nhà được thành lập bằng văn bản trước ngày 1/7/1991, có chữ ký của bên bán, ghi rõ bên bán đã nhận đủ tiền, bên mua chưa ký tên trên hợp đồng nhưng là người giữ hợp đồng và đã quản lý, sử dụng nhà ở ổn định trong thời gian dài mà bên bán không có tranh chấp đòi tiền mua nhà.
2. Án lệ số 08/2016/AL về xác định lãi suất, việc điều chỉnh lãi suất, việc điều chỉnh lãi suất trong hợp đồng tín dụng kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm.
Án lệ này được phát triển từ Quyết định Giám đốc thẩm số 12/2013/KDTM-GĐT ngày 16/5/2013 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng”.
3. Án lệ số 09/2016/AL về xác định lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường và việc trả lãi trên số tiền vi phạm, bồi thường thiệt hại.
Án lệ này được phát triển từ Quyết định Giám đốc thẩm số 07/2013/KDTM-GĐT ngày 15/3/2013 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa”.
4. Án lệ số 10/2016/AL về quyết định hành chính là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
Án lệ này được phát triển từ quyết định giám đốc thẩm số 08/2014/HC-GĐT của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao về vụ án hành chính “Khiếu kiện quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất”.
Trước đó, vào tháng 4/2016, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đã thông qua 06 án lệ, bao gồm:
1. Án lệ số 01/2016/AL về vụ án giết người.
Án lệ này được phát triển từ quyết định giám đốc thẩm số 04/2014/HS-GĐT ngày 16/4/2014 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao về vụ án “Giết người” đối với bị cáo Đồng Xuân Phương, sinh năm 1975; trú tại phường Hoàng Văn Thụ, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng.
2. Án lệ số 02/2016/AL về vụ án tranh chấp đòi lại tài sản.
Án lệ này được phát triển từ quyết định giám đốc thẩm số 27/2010/DS-GĐT ngày 08/7/2010 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao về vụ án “Tranh chấp đòi lại tài sản” tại tỉnh Sóc Trăng giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thảnh với bị đơn là ông Nguyễn Văn Tám.
3. Án lệ số 03/2016/AL về vụ án ly hôn.
Án lệ này được phát triển từ quyết định giám đốc thẩm số 208/2013/DS-GĐT ngày 03/5/2013 của Toà dân sự TAND tối cao về vụ án “Ly hôn” tại Hà Nội giữa nguyên đơn là chị Đỗ Thị Hồng với bị đơn là anh Phạm Gia Nam.
4. Án lệ số 04/2016/AL về vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Án lệ này được phát triển từ quyết định giám đốc thẩm số 04/2010/QĐ-HĐTP ngày 03-3-2010 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao về vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” tại thành phố Hà Nội giữa nguyên đơn là bà Kiều Thị Tý, ông Chu Văn Tiến với bị đơn là ông Lê Văn Ngự.
5. Án lệ số 05/2016/AL về vụ án tranh chấp di sản thừa kế.
Án lệ này được phát triển từ quyết định giám đốc thẩm số 39/2014/DS-GĐT ngày 09/10/2014 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao về vụ án “Tranh chấp di sản thừa kế” tại Thành phố Hồ Chí Minh giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thưởng, bà Nguyễn Thị Xuân với bị đơn là ông Nguyễn Chí Trải (Cesar Trai Nguyen), chị Nguyễn Thị Thuý Phượng, bà Nguyễn Thị Bích Đào.
6. Án lệ số 06/2016/AL về vụ án tranh chấp thừa kế.
Án lệ này được phát triển từ quyết định giám đốc thẩm số 100/2013/GĐT-DS ngày 12-8-2013 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao về vụ án “Tranh chấp thừa kế” tại Hà Nội, giữa nguyên đơn là ông Vũ Đình Hưng với bị đơn là bà Vũ Thị Tiến (tức Hiền), bà Vũ Thị Hậu.
Như vậy, tổng số án lệ đã được TAND tối cao thông qua và công bố đến nay là 10 án lệ.
GIANG HÀ