Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 19/6/2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015.
HNGĐ năm 2014 có 10 chương, 133 điều quy định về chế độ hôn nhân và gia đình; chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử giữa các thành viên gia đình; trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình, so với Luật HNGĐ năm 2000, Luật HNGĐ năm 2014 có những nội dung mới cơ bản sau đây:
1- Sửa đổi, bổ sung một số quy định chung
Thứ nhất, bổ sung nguyên tắc “kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa và đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình” (khoản 5 điều 2); sửa đổi, bổ sung nguyên tắc “Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con (khoản 3 điều 2); nguyên tắc “Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình (khoản 4 điều 2).
Thứ hai, bổ sung thêm các từ ngữ mới tại điều 3 như sau: Tập quán hôn nhân và gia đình (khoản 4); Chung sống như vợ chồng (khoản 7); Cản trở kết hôn, ly hôn (khoản 10); Kết hôn giả tạo (khoản 11); Yêu sách của cải trong kết hôn (khoản 12); Ly hôn giả tạo (khoản 15); Thành viên gia đình (khoản 16); Người thân thích (khoản 19); Nhu cầu thiết yếu (khoản 20); Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (khoản 21); Mang thai vì mục đích nhân đạo (khoản 22); Mang thai vì mục đích thương mại (khoản 23).
Thứ ba, bổ sung quy định trách nhiệm của Chính phủ trong quản lý Nhà nước về hôn nhân và gia đình (khoản 2 điều 4).
Thứ tư, các hành vi bị cấm trong hôn nhân và gia đình (khoản 2 điều 5). Theo đó, những điều cấm được quy định trong Luật HNGĐ năm 2000, được rà soát để quy định chung tại khoản 2 điều 5 Luật HNGĐ năm 2014, tạo sự đồng bộ với các luật liên quan như: Luật phòng, chống bạo lực gia đình, Luật bình đẳng giới…và phù hợp với thực tiễn. Cụ thể Luật HNGĐ năm 2014 đã bổ sung quy định cấm các hành vi sau đây: (1) ly thân giả tạo; (2) cản trở kết hôn; (3) chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; (4) yêu sách của cải trong việc kết hôn; (5) cản trở ly hôn; (6) thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính; (7) bạo lực gia đình; (8) lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.
Thứ năm, quy định về áp dụng tập quán hôn nhân và gia đình (điều 7): Theo đó áp dụng các tập quán giúp giải quyết được một cách ổn thỏa quan hệ hôn nhân và gia đình mà không cần can thiệp của pháp luật được áp dụng, khi mà tập quán là ưu thế (điều 92).
2- Sửa đổi, bổ sung quy định về kết hôn
Thứ nhất, về điều kiện kết hôn, theo đó: Điều 8 Luật HNGĐ năm 2014 quy định về tuổi kết hôn, nâng độ tuổi kết hôn của Nam thành từ đủ 20 tuổi, tuổi kết hôn nữ từ đủ 18 tuổi, thay vì quy định “nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên” như khoản 1 điều 9 Luật HNGĐ năm 2000, điều kiện kết hôn không mất năng lực hành vi dân sự.
Thứ hai, về đăng ký kết hôn (điều 9): kết hôn phải đăng ký và do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật HNGĐ năm 2014 và Luật về hộ tịch thì mới có giá trị pháp lý.
Thứ ba, về người có quyền yêu cầu việc hủy kết hôn trái pháp luật (điều 10): Theo đó, bổ sung thêm so với Luật năm 2000: 02 chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật gồm: (1) Cơ quan quản lý Nhà nước về gia đình; Và (2) Cơ quan quản lý Nhà nước về trẻ em.
Thứ tư, về xử lý việc kết hôn trái pháp luật (điều 11): theo đó, quy định trình tự xem xét theo BLTTDS và điều 8 Luật HNGĐ, đồng thời điều luật giao nhiệm vụ cho “Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn điều này”. Như vậy, sẽ có văn bản hướng dẫn về nội dung này.
Thứ năm, điều 13 là điều luật mới quy định về xử lý đăng ký kết hôn không đúng thẩm quyền: “Trong trường hợp việc đăng ký kết hôn không đúng thẩm quyền thì khi có yêu cầu, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật về hộ tịch và yêu cầu hai bên thực hiện lại việc đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ ngày đăng ký kết hôn trước”.
3- Bổ sung quy định về giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn
Tại các điều 14, 15, 16 Luật HNGĐ năm 2014 đã bổ sung các quy định về giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn với những nội dung cơ bản sau:
- Việc nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng (quan hệ hôn nhân). Trong trường hợp sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn (điều 14).
- Quy định nguyên tắc giải quyết quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, được giải quyết theo quy định của Luật HNGĐ về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con (điều 15).
- Quy định về quan hệ tài sản chung, nghĩa vụ và hợp đồng giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn (điều 16).
Quy định “người thực hiện công việc nội trợ và các công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được xem như lao động có thu nhập” nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho người công việc nội trợ gia đình và công việc khác có liên quan đến duy trì đời sống chung gia đình.
4- Sửa đổi, bổ sung quy định đại diện cho nhau giữa vợ và chồng
Mục 2 chương III Luật HNGĐ năm 2014, từ điều 24 đến điều 27 quy định về “Đại diện giữa vợ và chồng” trên cơ sở kế thừa và sửa đổi, bổ sung quy định tại điều 24 và điều 25 Luật HNGĐ năm 2000; theo đó, có những nội dung mới sau đây:
- Để phù hợp với quy định về việc “vợ chồng có quyền thỏa thuận lựa chọn chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận” (điều 28), tại khoản 1 điều 24 Luật HNGĐ năm 2014 quy định: Việc đại diện giữa vợ và chồng trong xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch được xác định theo quy định của L:uật HNGĐ, Bộ luật Dân sự và các luật khác có liên quan.
- Để phù hợp với đặc thù quan hệ kinh doanh, Luật đã bổ sung quy định trường hợp vợ, chồng kinh doanh chung thì vợ, chồng trực tiếp tham gia quan hệ kinh doanh là người đại diện hợp pháp của nhau trong quan hệ kinh doanh đó, trừ trường hợp trước khi tham gia quan hệ kinh doanh vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc Luật HNGĐ và các luật có liên quan có quy định khác (khoản 1 điều 25).
- Để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và gia đình; quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba; sự an toàn trong giao dịch khi xác lập, thực hiện các giao dịch đối với tài sản chung của vợ chồng mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với tài sản chung nhưng chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng. Theo đó, việc đại diện giữa vợ và chồng trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch có liên quan đến tài sản chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng được thực hiện theo quy định về căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng (điều 24), đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh (điều 25) của Luật HNGĐ. Trong trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên các giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch với người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng của Luật HNGĐ thì giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp theo quy định của Luật mà người thứ ba ngay tình theo quy định của Bộ luật Dân sự được bảo vệ quyền lợi (khoản 2 điều 26).
- Để bao quát hơn các trường hợp vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện; bảo đảm sự ổn định, an toàn trong giao dịch do một bên thực hiện; bảo đảm sự ổn định, an toàn trong giao dịch; quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba, tại điều 27 Luật HNGĐ năm 2014 bên cạnh quy định về việc vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự do một bên thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình quy định tại khoản 1 điều 30 Luật HNGĐ, cũng đã mở rộng hơn các trường hợp vợ chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện giữa vợ và chồng quy định tại các điều 24, 25, 26 Luật HNGĐ đối với các nghĩa vụ chung của vợ chồng về tài sản quy định tại điều 37 Luật HNGĐ năm 2014.
5- Sửa đổi, bổ sung quy định về chế độ tài sản của vợ, chồng
Thứ nhất, bổ sung điều 28 quy định về “Áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng”, khẳng định quyền của vợ chồng trong việc lựa chọn chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận.
Thứ hai, bổ sung điều 29 quy định các nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng. Trên cơ sở đảm bảo sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, không phân biệt lao động gia đình và lao động có thu nhập, bảo đảm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Quy định về việc phải bồi thường khi thực hiện quyền nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng mà xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Thứ ba, bổ sung điều 30 quy định “quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong việc áp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình (điều 30). Quy định nhằm trao cho mỗi bên vợ, chồng khả năng tự mình thực hiện và trách nhiệm liên đới các giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của giai đình. Quy định về nghĩa vụ của vợ chồng phải đóng góp tài sản tiêng vào việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.
Thứ tư, bổ sung điều 31 quy định “Giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ, chồng; theo đó: “Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng phải có sự thỏa thuận của vợ chồng. Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng thì chủ sở hữu có quyền xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản đó nhưng phải bảo đảm chỗ ở cho vợ chồng”.
Thứ năm, bổ sung điều 32 quy định “Giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng” với các nội dung sau đây:
- Quy định “Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng là người đứng tên tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó”.
- Quy định “Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng đang chiếm hữu động sản mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó trong trường hợp Bộ luật Dân sự có quy định về việc bảo vệ người thứ ba ngay tình”.
Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung một số quy định (từ điều 33 đến điều 46) về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định với các nội dung sau:
- Những tài sản mà vợ, chồng có được từ tài sản riêng của mình (ví dụ: hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung) vẫn thuộc sở hữu riêng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Đối với quyền sử dụng đất, trong thời kỳ hôn nhân mà vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng thì đó vẫn là tài sản riêng của vợ hoặc chồng.
- Bổ sung điều 34 quy định về đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung; theo đó: Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác; Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao dịch liên quan đến tài sản này được thực hiện theo quy định tại điều 26 của Luật HNGĐ năm 2014; nếu có tranh chấp về tài sản đó thì được giải quyết theo quy định tại khoản 3 điều 33 của Luật HNGĐ năm 2014.
- Điều 35 Luật HNGĐ năm 2014 đã sửa đổi, bổ sung quy định về “chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung” trên cơ sở kế thừa điều 28 Luật HNGĐ năm 2000; theo đó bỏ quy định “Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung” tại khoản 1 điều 28 của Luật năm 2000 vì đã quy định ở khoản 1 điều 29 Luật năm 2014; Đồng thời quy định cụ thể 03 trường hợp mà việc định đoạt tài sản chung phải có thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng, đó là (1) bất động sản; (2) động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; (3) tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.
- Bổ sung điều 36 quy định về “Tài sản chung được đưa vào kinh doanh”; theo đó xác định rõ: “Trong trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thì người này có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó. Thỏa thuận này phải lập thành văn bản”.
- Bổ sung điều 37 quy định về “Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng (điều 37) và điều 45 quy định về “Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng”.
- Sửa đổi, bổ sung các quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân (từ điều 38 đến điều 42); theo hướng, quy định cụ thể hơn về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, nhất là về hậu quả pháp lý của nó; theo đó sửa đổi, bổ sung các quy định về quyền yêu cầu, cách thức chia tài sản chung (điều 38); thời điểm có hiệu lực của việc chia tìa sản chung trong thời kỳ hôn nhân (điều 39 – điều mới); hậu quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (điều 40); chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (điều 41 – điều mới); các trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu (điều 42 – điều mới).
- Bổ sung điều 46 quy định về “Nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung” để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Tính đặc thù của quan hệ vợ chồng, Luật quy định việc nhập tài sản riêng của vợ chồng vào tài sản chung được thực hiện theo thỏa thuận của vợ chồng (không nhất thiết bằng văn bản). Đối với những tài sản được nhập vào tài sản chung mà pháp luật quy định giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì thỏa thuận phải bảo đảm hình thức đó.
Thứ bảy, bổ sung các điều luật mới (từ điều 47 đến điều 50) quy định về chế định tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận.
6- Bổ sung chế định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
- Thứ nhất, quy định việc “xác định cha, mẹ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” (điều 94); theo đó: “Con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra”.
- Thứ hai, quy định “điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” (Điều 95); theo quy định này:
Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản.
- Cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ phải đáp ứng các điều kiện sau: (i) Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; (ii) Vợ chồng đang không có con chung; (iii) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
- Người được nhờ mang thai hộ phải có đủ điều kiện sau: (i) là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ; (ii) Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần; (iii) Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ; (iv) Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng; (v) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
- Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái với quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Để đảm bảo tính khả thi và quy định cụ thể, chặt chẽ hơn về vấn đề này, Luật quy định giao cho Chính phủ quy định chi tiết về các điều kiện này.
Thứ ba, quy định “Quyền, nghĩa vụ của bên mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” (điều 97).
Thứ tư, quy định “Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo (điều 98).
Thứ năm, quy định về giải quyết tranh chấp liên quan đến việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo (điều 99).
7- Sửa đổi, bổ sung các quy định về Ly hôn
- Bổ sung quy định “Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng bị tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do vợ, chồng của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ (khoản 2 điều 51). Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định nêu trên thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia (khoản 3 diều 56).
- Bổ sung quy định mới về thời điểm chấm dứt hôn nhân và trách nhiệm gửi bản án, quyết định ly hôn (điều 57).
- Bổ sung quy định mới về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ và con sau khi ly hôn (điều 58).
- Sửa đổi quy định về “Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ, chồng sau khi ly hôn” (điều 59).
- Bổ sung 01 điều luật mới quy định về “Giải quyết quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba khi ly hôn” (điều 60).
8- Sửa đổi, bổ sung một số quy định mới về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
- Bổ sung điều luật mới quy định về “hợp pháp hóa lãnh sự giấy tờ, tài liệu về hôn nhân và gia đình” (điều 124).
- Bổ sung điều mới quy định về “Công nhận, ghi chú bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về hôn nhân và gia đình” (điều 125).
- Bổ sung điều mới quy định về “xác định cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài” (điều 128).
- Bổ sung điều mới quy định về “nghĩa vụ cấp dưỡng có yếu tố nước ngoài” (điều 129).
TRẦN QUỲNH – TÚ VƯƠNG