Tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự là thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố. Tranh luận có vai trò quan trọng trong việc xác định hành vi phạm tội của bị cáo, tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra…, là một trong những giai đoạn quan trọng có ý nghĩa quyết định để Hội đồng xét xử thảo luận trong khi nghị án. Đây cũng là giai đoạn được những người tham dự phiên tòa quan tâm nhất, bởi nó chứa đựng sự căng thẳng, kịch tính, đầy bất ngờ giữa bên buộc tội và bên gỡ tội.
Ảnh minh họa.
1- Theo Từ điển tiếng Việt: “ Tranh luận là bàn cãi để tìm ra lẽ phải ”. Khi tranh luận, KSV, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác phát biểu quan điểm của mình, phân tích, đánh giá chứng cứ, đề nghị áp dụng pháp luật và giải quyết các vấn đề của vụ án. Trên cơ sở các ý kiến đó, HĐXX sẽ xem xét, quyết định các vấn đề của vụ án một cách đúng đắn, khách quan. Vì vậy, tranh luận tại phiên tòa thể hiện rõ nhất yêu cầu tranh tụng theo đúng tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị “…Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác…”, “…Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp ”.
Mục đích tranh luận là nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án, bác bỏ những quan điểm sai trái của người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, bảo vệ quan điểm truy tố của VKS, giúp HĐXX ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Việc tranh luận của KSV thể hiện tính công khai, dân chủ, nâng cao vị thế của KSV tại phiên tòa và góp phần nâng cao uy tín của Ngành kiểm sát nhân dân. Việc tranh luận công khai dân chủ tại phiên toà là thể hiện bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
2- Theo quy định tại Điều 24 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự và các quy định của BLTTHS, tranh luận của KSV tại phiên toà phải đạt các yêu cầu sau:
- Phải tôn trọng sự thật khách quan của vụ án.
Qua xét hỏi công khai tại phiên toà, có thể những tình tiết, chứng cứ khác với những tình tiết, chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra hoặc có những tình tiết, chứng cứ mới mà hồ sơ vụ án chưa có. Nếu những tình tiết, chứng cứ này có căn cứ, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án thì KSV phải chấp nhận, không được bác bỏ.
Qua ý kiến tranh luận của bị cáo, luật sư và những người tham gia tố tụng khác, có thể có những ý kiến, quan điểm trái ngược với Cáo trạng, luận tội. Những ý kiến này có căn cứ, phù hợp với diễn biến khách quan của vụ án thì KSV cũng phải chấp nhận.
- Tranh luận phải bảo đảm tính có căn cứ, tính thuyết phục.
Đây là một trong những yêu cầu mà KSV cần phải đặc biệt chú trọng khi tranh luận. Yêu cầu này đòi hỏi KSV khi đối đáp, tranh luận phải viện dẫn những tài liệu, chứng cứ cụ thể đã được kiểm tra tại phiên toà và những căn cứ pháp luật cụ thể ( như điều nào của BLHS, BLTTHS hay văn bản pháp luật nào... ). Việc viện dẫn các tài liệu, chứng cứ và căn cứ pháp luật cần ngắn gọn, đi thẳng vào nội dung trọng tâm cần tranh luận, tránh viện dẫn dài dòng, không cụ thể. Kinh nghiệm cho thấy: khi đối đáp, tranh luận đạt được tính có căn cứ và hợp lý thì đảm bảo được tính thuyết phục.
- Phải tôn trọng quyền bào chữa của bị cáo, Luật sư và những người tham gia tố tụng khác.
Bộ luật tố tụng hình sự có rất nhiều điều quy định về tôn trọng và bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, Luật sư và những người tham gia tố tụng khác. Tại Điều 11 quy định: “ Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này”. Tại Điều 19 BLTTHS cũng quy định: “ KSV, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Toà án. Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án ”... Như vậy, khi tranh luận KSV cần thực hiện đúng các quy định của BLTTHS, tôn trọng quyền bào chữa của bị cáo, Luật sư và những người tham gia tố tụng khác.
- Bảo đảm văn hóa ứng xử khi tranh luận.
KSV thực hành quyền công tố tại phiên toà vừa là người tiến hành tố tụng, thay mặt Nhà nước buộc tội bị cáo, vừa là người thực hiện chức năng KSVTTPL của Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng tại phiên toà. Trong khi đó, bị cáo, luật sư và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà với tư cách là những người tham gia tố tụng và chịu sự giám sát của KSV về việc chấp hành pháp luật tại phiên toà. Vì vậy, nhiều khi do vị trí pháp lý khác nhau nên dễ dẫn đến tư tưởng, thái độ của KSV không tôn trọng bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Biểu hiện của thái độ này thường là khi bị cáo chối tội hoặc người bào chữa có quan điểm không thống nhất với luận tội... thì KSV tỏ ra mất bình tĩnh, cáu gắt, quát tháo...Do đó, trong mọi trường hợp KSV phải bình tĩnh, khách quan và tôn trọng ý kiến của những người tham gia tố tụng, không được có những cử chỉ mang tính coi thường, xúc phạm bị cáo, người bào chữa...
3- Nội dung tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên toà chủ yếu phụ thuộc vào nội dung lời tự bào chữa của bị cáo, lời bào chữa của Luật sư, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác. Mỗi vụ án cụ thể có những nội dung tranh luận khác nhau. Tuy nhiên, qua thực tiễn công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự thời gian qua cho thấy nội dung tranh luận được tập trung ở một số trường hợp sau:
a- Tranh luận với bị cáo và luật sư của bị cáo:
+ Bị cáo và luật sư của bị cáo đưa ra các chứng cứ và căn cứ pháp luật để chứng minh bị cáo không phạm tội như Cáo trạng truy tố và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo không phạm tội.
Để tranh luận với bị cáo và luật sư của bị cáo, KSV phải đưa ra những chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên toà cũng như các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và những căn cứ pháp luật để chứng minh hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội phạm như Cáo trạng truy tố nhằm bác bỏ những vấn đề mà bị cáo, luật sư của bị cáo nêu ra.
+ Bị cáo và luật sư của bị cáo đưa ra các chứng cứ và căn cứ pháp luật để chứng minh bị cáo phạm một tội khác nhẹ hơn tội mà VKS truy tố hoặc bị cáo phạm tội như Cáo trạng truy tố nhưng ở khung hình phạt nhẹ hơn.
Trường hợp này, KSV phải đưa ra các tài liệu, chứng cứ và các căn cứ pháp luật để phân tích, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo hội đủ các yếu tố cấu thành tội hoặc có các tình tiết định khung hình phạt của tội danh mà VKS truy tố; đồng thời KSV cũng phải chứng minh tội danh hoặc khung hình phạt mà bị cáo, luật sư nêu ra là không có căn cứ, không đúng pháp luật.
+ Bị cáo và luật sư của bị cáo thống nhất với VKS về tội danh, khung hình phạt mà VKS truy tố nhưng không thống nhất về việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và đưa ra các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, về nhân thân, hoàn cảnh gia đình của bị cáo... để đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo hình phạt thấp nhất, xin cho bị cáo được hưởng án treo, giảm phần bồi thường dân sự...
KSV cần xem xét, đánh giá chính xác các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Ghi chép kỹ những tình tiết giảm nhẹ, tình tiết về nhân thân mà bị cáo, luật sư đưa ra, đối chiếu với các quy định của pháp luật để xem tình tiết nào phù hợp, tình tiết nào không phù hợp, tình tiết nào đã được VKS xem xét, cân nhắc khi luận tội...để có thể chấp nhận hay không chấp nhận ý kiến bào chữa.
+ Bị cáo và luật sư của bị cáo đưa ra các chứng cứ và căn cứ pháp luật để chứng minh việc điều tra vi phạm tố tụng, có thiếu sót hoặc chưa đầy đủ để đề nghị HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
KSV cần nghiên cứu kỹ nội dung lời bào chữa và xem xét các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, đối chiếu các quy định của pháp luật để chấp nhận hay bác bỏ lời bào chữa.
b - Tranh luận với người bị hại và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại:
+ Trường hợp người bị hại và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại đưa ra chứng cứ để chứng minh các cơ quan tố tụng đã bỏ lọt tội phạm và người phạm tội và yêu cầu xử lý: KSV cần xem xét kỹ các chứng cứ phía bị hại đưa ra, trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án để phân tích, đánh giá việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án có bỏ lọt tội phạm và người phạm tội hay không. Nếu xác định là không bỏ lọt thì bác bỏ ý kiến của phía bị hại. Nếu xác định có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm và người phạm tội thì KSV có thể đề nghị HĐXX khởi tố để tiếp tục điều tra ( nếu việc xử lý tội phạm và người phạm tội này không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án ) hoặc đề nghị HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung ( nếu thấy không điều tra bổ sung sẽ ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án và việc điều tra bổ sung này không thể thực hiện tại phiên toà được ).
+ Trường hợp người bị hại và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại đưa ra các tình tiết tăng nặng để yêu cầu xử tăng hình phạt đối với bị cáo: KSV phải phân tích, đánh giá giống như trường hợp bị cáo, luật sư của bị cáo bào chữa xin giảm nhẹ hình phạt. Tức là phải ghi chép kỹ những tình tiết tăng nặng mà phía bị hại đưa ra, đối chiếu với các quy định của pháp luật để xem tình tiết nào phù hợp, tình tiết nào không phù hợp, tình tiết nào đã được VKS xem xét, cân nhắc khi luận tội...để có thể chấp nhận hay không chấp nhận.
+ Trường hợp người bị hại và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại đưa ra các chứng cứ để yêu cầu tăng mức bồi thường thiệt hại: KSV phải xem xét các chứng cứ đó có đúng pháp luật, có phù hợp với thực tế hay không. Nếu các chứng cứ đó không đúng pháp luật, không phù hợp với thực tế thì bác bỏ. Nếu các chứng cứ đó đúng pháp luật phù hợp với thực tế thì cần xem xét cụ thể các trường hợp như:
- Tính đến ngày xét xử mà các khoản đó người bị hại vẫn chưa chi trên thực tế thì đề nghị HĐXX tách ra để xem xét bằng một vụ kiện dân sự khi có đủ các chứng từ chứng minh thiệt hại và khi bị hại có đơn yêu cầu.
- Trường hợp yêu cầu bồi thường đúng pháp luật nhưng chứng từ chứng minh lại chưa đảm bảo về mặt pháp lý ( ví dụ: phải có “ hoá đơn đỏ” nhưng người bị hại lại chỉ xuất trình giấy viết tay... ) thì KSV phải xem xét kỹ, nếu các khoản chi đó là có thật và phù hợp với thực tế thì chấp nhận.
c - Tranh luận với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Thông thường, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hay đưa ra những chứng cứ nhằm tăng quyền lợi, giảm nghĩa vụ cho mình. Tuỳ từng trường hợp, KSV có thể tranh luận giống như đối với trường hợp bị cáo xin giảm bồi thường hoặc người bị hại yêu cầu tăng bồi thường.
Tóm lại: Nội dung tranh luận của KSV tại phiên toà không phải trong vụ án nào cũng giống nhau. KSV cần phải chủ động và linh hoạt tranh luận, đối đáp để bảo vệ quan điểm đúng đắn của VKS. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý:
- Trường hợp có một số tài liệu, chứng cứ hoặc có những tình tiết mới mà người bào chữa đưa ra, KSV thấy chưa rõ, chưa có căn cứ kết luận chính xác thì đề nghị HĐXX quay trở lại phần xét hỏi , sau đó mới tranh luận. Nếu đã quay trở lại phần xét hỏi mà vẫn không làm rõ được mà các tài liệu, chứng cứ hoặc những tình tiết mới đó có ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án thì KSV đề nghị HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
- Trường hợp người bào chữa vắng mặt tại phiên toà nhưng đã có bài bào chữa gửi Toà án thì:
+ Nếu KSV biết được nội dung bài bào chữa trước khi mở phiên tòa thì đưa vào nội dung đối đáp, tranh luận với người bào chữa ngay trong bản luận tội.
+ Nếu ra phiên tòa KSV mới biết thì yêu cầu HĐXX công bố bài bào chữa đó. Trường hợp này, KSV vẫn phải đối đáp lại theo đúng quy định tại Điều 218 BLTTHS.
+ Nếu người bào chữa được quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS vắng mặt tại phiên tòa, mặc dù họ đã có bài bào chữa gửi HĐXX thì KSV căn cứ Điều 190 BLTTHS đề nghị hoãn phiên tòa.
4- Phương pháp tranh luận là phương pháp, biện pháp và cách thức mà KSV thực hiện khi tranh luận tại phiên tòa. Kinh nghiệm cho thấy, có phương pháp, biện pháp và cách thức tranh luận khác nhau, theo từng vụ án cụ thể và năng lực của mỗi KSV. Tuy nhiên, qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự thời gian qua, có thể rút ra hai phương pháp tranh luận chủ yếu sau đây:
a- Phương pháp tranh luận đối với từng ý kiến một:
Theo Điều 218 BLTTHS: Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến về luận tội của KSV và đưa ra đề nghị của mình; KSV phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến… Chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị KSV phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được KSV tranh luận.
Cần hiểu rằng, “ ý kiến ” ở đây chính là quan điểm của một và cũng có thể là quan điểm của nhiều người bào chữa hoặc của người bào chữa và bị cáo, người bào chữa và bị hại… nêu ra cùng một vấn đề. Vì vậy, tranh luận đối với từng ý kiến một không hoàn toàn là tranh luận đối với từng người một. Theo quy định tại Điều 24 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự “Nếu vụ án có nhiều người bào chữa cho bị cáo, họ có cùng ý kiến về một nội dung bào chữa thì KSV tổng hợp để đối đáp chung một lần cho các ý kiến đó”. Do đó, tùy theo diễn biến của từng vụ án cụ thể mà KSV có thể xem xét, quyết định phương pháp tranh luận.
b- Phương pháp tranh luận đối với những ý kiến quan trọng, chủ yếu, mang tính quyết định:
Về nguyên tắc, khi tranh luận KSV phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 218 BLTTHS. Do đó, khi áp dụng phương pháp tranh luận đối với những ý kiến quan trọng, chủ yếu, mang tính quyết định trong vụ án, KSV cần lựa chọn những vấn đề nào là quan trọng, chủ yếu và mang tính quyết định. Thông thường, đó là những ý kiến về việc bị cáo không phạm tội, hoặc phạm một tội khác nhẹ hơn tội danh mà VKS truy tố, phạm tội thuộc khoản nhẹ hơn… KSV cần chọn những nội dung sai cơ bản trong ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác… để phân tích bác bỏ, không nên đi vào những chi tiết vụn vặt.
Hồ Ngọc Thảo