Thứ Hai, 28/04/2025 12:55 CH

Người tiến hành tố tụng hình sự và vị trí, vai trò của người tiến hành tố tụng hình sự

1. Người tiến hành tố tụng hình sự

 

Quá trình giải quyết vụ án hình sự là một quá trình liên tục, trải qua nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau như: Khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Mỗi giai đoạn tố tụng đều có những đặc điểm đặc trưng và thể hiện một hướng nhất định của hoạt động tố tụng. Hoạt động tố tụng ở mỗi giai đoạn lại do một cơ quan nhất định thực hiện chính. Các cơ quan này được gọi là cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án). Khi tiến hành những hoạt động cụ thể trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và thi hành các bản án, quyết định của Toà án, cơ quan tiến hành tố tụng phải thông qua những con người cụ thể, những người đó gọi là người tiến hành tố tụng. Tương ứng với từng cơ quan tiến hành tố tụng thì có người tiến hành tố tụng tương ứng.

 

Người tiến hành tố tụng (THTT) là một trong các chủ thể của tố tụng hình sự (TTHS), có vai trò quan trọng, mang tính quyết định trong quá trình chứng minh, giải quyết vụ án hình sự. Những người THTT có nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau, nhưng hoạt động của họ có mối liên hệ mật thiết, thống nhất với nhau và đều có trách nhiệm là nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trên cơ sở phân loại theo các cơ quan THTT thì có người THTT trong Cơ quan điều tra (CQĐT), người THTT trong cơ quan Viện kiểm sát và người THTT trong cơ quan Toà án.

 

Theo quy định tại Điều 33 của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 thì người THTT trong CQĐT gồm có Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT và Điều tra viên; người tiến hành tố tụng trong cơ quan Viện kiểm sát gồm có Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên; người THTT trong cơ quan Toà án gồm có Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán và Thư ký Toà án. Như vậy, ngoài các chức danh tư pháp như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, BLTTHS năm 2003 còn quy định những chức danh lãnh đạo của CQĐT, Viện kiểm sát, Toà án là người tiến hành tố tụng. Do đó, có thể hiểu rằng, những người đại diện cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự là người THTT.

 

Hoạt động TTHS là một loại hình của việc thực hiện quyền tư pháp, luôn gắn liền với công việc cụ thể, với một sự kiện, hành vi pháp lý cụ thể, với từng con người cụ thể trong một tình huống cụ thể. Vì vậy, vị trí pháp lý của người tiến hành TTHS (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán...) là những người có chức danh tư pháp. Vì quan niệm chức danh tư pháp bao gồm những người thực thi nhiệm vụ trong các cơ quan tư pháp (điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án) được đào tạo kỹ năng thực hành và hành nghề theo một chuyên môn nhất định, có danh xưng, được bổ nhiệm hoặc thừa nhận theo pháp luật khi đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn và điều kiện xác định theo quy định của pháp luật. Xác định vị trí pháp lý của người tiến hành TTHS là một chức danh tư pháp vì những lý do sau đây:

 

Thứ nhất, về khái niệm hoạt động tư pháp, mặc dù chưa có một quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể thế nào là hoạt động tư pháp, nhưng có thể hiểu được nội hàm của nó trong pháp luật nước ta. Hoạt động tư pháp là hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết các vụ việc dân sự. Cụ thể là điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự; giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động... Trong lĩnh vực hình sự, hoạt động điều tra hình sự được giao cho Cơ quan điều tra, hoạt động truy tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp được giao cho Viện kiểm sát, hoạt động xét xử được giao cho Toà án. Do đó, các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được coi là hoạt động tư pháp; các CQĐT, Viện kiểm sát, Toà án với chức năng, nhiệm vụ được giao là cơ quan tư pháp, vì vậy, chức danh của những người được Nhà nước bổ nhiệm để thực thi nhiệm vụ trong các cơ quan tư pháp là chức danh tư pháp.

 

Thứ hai, các hành vi tố tụng của người tiến hành TTHS thể hiện đầy đủ những đặc trưng cơ bản của hoạt động tư pháp, đó là:

- Là hoạt động áp dụng pháp luật để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật;

- Được trực tiếp sử dụng quyền lực Nhà nước trong khi thi hành công vụ;

- Có ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích cơ bản của công dân;

- Thực hiện theo thủ tục tố tụng tư pháp chặt chẽ;

- Mục đích của các hành vi tố tụng là phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội;

 - Đảm bảo tính độc lập, khách quan, chính xác;

- Chịu trách nhiệm cá nhân và chỉ tuân theo pháp luật.

 

Thứ ba, người tiến hành TTHS được bổ nhiệm theo điều kiện và cách thức do luật định. Điều kiện và cách thức bổ nhiệm người tiến hành TTHS ở mỗi nước là khác nhau, tùy theo quy định của pháp luật TTHS nước đó. Tuy nhiên, thông thường đều quy định các điều kiện về: Phẩm chất chính trị, trình độ pháp luật, học vấn, năng lực chuyên môn.

 

Từ phân tích trên, theo chúng tôi, người tiến hành TTHS là một chức danh tư pháp, thể hiện cấp bậc, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của một người được Nhà nước bổ nhiệm nếu đáp ứng các tiêu chuẩn do pháp luật quy định và được giao nhiệm vụ tiến hành các hoạt động trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và thi hành các bản án, quyết định của Toà án theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định.

 

Người tiến hành tố tụng bao gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra và Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án Toà án và Thẩm phán; Hội thẩm nhân dân; Thư ký Toà án. 

 

Bộ máy Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc: ‘‘Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện  các  quyền  lập  pháp, hành  pháp, tư  pháp” (Điều 2 của Hiến pháp năm 1992). Để đảm bảo thực hiện quyền lực nhà nước thì việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đều có vị trí, vai trò rất quan trọng. Việc tổ chức thực hiện đầy đủ và đồng bộ ba quyền trên sẽ đảm bảo phát huy sức mạnh của quyền lực nhà nước. Quyền tư pháp được hiểu là chức năng duy trì và bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của công dân. Các cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện quyền tư pháp được gọi là cơ quan tư pháp hay còn gọi là cơ quan bảo vệ pháp luật. Ở nước ta, theo nhận thức chung thì quyền tư pháp được giao cho các cơ quan, như Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát; Toà án; Thi hành án thực hiện và hoạt động tố tụng hình sự là một trong những loại hình hoạt động chủ yếu của quyền tư pháp.

 

Thực hiện quyền tư pháp là hoạt động của các cơ quan, các cá nhân có thẩm quyền áp dụng pháp luật để phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Do đó, để các bản án, quyết định được công bằng, đúng pháp luật, không làm oan sai cho người dân thì trong từng hoạt động, từng giai đoạn của quá trình tố tụng, các cá nhân (các chức danh tư pháp) có thẩm quyền phải khách quan, vô tư, độc lập và tuân thủ nghiêm ngặt pháp luật; chỉ được làm những gì pháp luật cho phép và phải làm theo đúng trình tự, thủ tục, thời hạn do pháp luật quy định.

 

Trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán là nhân vật trung tâm, họ là người được đại diện cho các cơ quan THTT (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án) làm nhiệm vụ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Thông qua hoạt động giải quyết vụ án hình sự, họ có nhiệm vụ xác định tội phạm và người phạm tội được chính xác, xử lý nghiêm minh, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

 

Về mặt lý luận, vị trí, vai trò của một chủ thể quan hệ pháp luật (tổ chức, cá nhân) được hiểu là tổng hợp các quy định của pháp luật là cơ sở cho sự tồn tại, tổ chức, hoạt động cũng như thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chủ thể đó; làm căn cứ để phân biệt chủ thế đó với các chủ thể khác. Vị trí, vai trò của người tiến hành TTHS, về nguyên tắc, phải thống nhất, không thể tách rời vị trí, vai trò của các cơ quan THTT. Trong hoạt động TTHS, để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan THTT không thể triển khai tác nghiệp tập thể mà phải thông qua các cá nhân đại diện thường xuyên. Những cá nhân này chính là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra và Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án Toà án và Thẩm phán được phân công thực hiện nhiệm vụ trong từng giai đoạn tố tụng tương ứng mà pháp luật tố tụng hình sự quy định.

 

Việc xác định vị trí, vai trò của người THTT phải xuất phát từ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan THTT. Nghĩa là, vị trí vai trò của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra và Điều tra viên được quy định bởi vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan điều tra là: ‘‘Cơ quan điều tra tiến hành điều tra tất cả các tội phạm, áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ, đề nghị truy tố... ” (Điều 3 của Pháp lệnh về Tổ chức điều tra hình sự năm 2004); vị trí, vai trò của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên xuất phát từ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát là: ‘‘VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật... trong phạm vi chức năng của mình, VKSND có nhiệm vụ góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ XHCN... bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải được xử lý theo pháp luật” (Điều 1, 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002); vị trí, vai trò của Chánh án, Phó Chánh án Toà án và Thẩm phán được quy định bởi vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Toà án là: ‘‘TAND tối cáo, TAND địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, Toà án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ tài sản nhà nước, tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân” (Điều 1 của Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002). Do đó, theo chúng tôi, vị trí, vai trò của người tiến hành TTHS được xác định như sau:

 

Một là, người tiến hành TTHS là người duy nhất được Nhà nước giao trách nhiệm thực hiện các hành vi tố tụng trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành các bản án, quyết định của Toà án và các quyết định khác do pháp luật quy định. Nói cách khác, người tiến hành TTHS là người nhân danh Nhà nước thực hiện các hoạt động TTHS theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện nhiệm vụ chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Người tiến hành TTHS là người có vai trò quan trọng, giữ vị trí trung tâm trong hoạt động TTHS. Tư cách đạo đức, ý thức pháp luật, trình độ nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp của người THTT là những tiêu chí để người dân, dư luận xã hội đánh giá về bộ máy Nhà nước, tính nghiêm minh của pháp luật trong đấu tranh phòng và chống tội phạm. Người THTT khi tiến hành các hoạt động tố tụng chỉ được làm những gì pháp luật cho phép và phải tuân theo đúng trình tự, thủ tục, thời gian do pháp luật quy định; phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định của mình. Người THTT hình sự có vị trí mang tính độc lập cả về nhiệm vụ lẫn quyền hạn trong khi thực hiện các hoạt động tố tụng được giao. Khi họ thực thi nhiệm vụ, không ai, không cơ quan nào được can thiệp, tác động để có thể buộc họ làm trái pháp luật; không ai, không cơ quan nào được lấy thẩm quyền hành chính để thay thế, chỉ đạo hoạt động tố tụng của họ, trừ khi người đó cố tình vi phạm pháp luật. 

 

Trong hệ thống những chức danh của bộ máy Nhà nước, chức danh tư pháp là chức danh đặc thù, chỉ do Nhà nước quy định và bổ nhiệm để làm nhiệm vụ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử... Như chức danh Điều tra viên chỉ có trong Cơ quan điều tra để làm nhiệm vụ điều tra vụ án hình sự; chức danh Kiểm sát viên chỉ có trong hệ thống Viện kiểm sát để thực hiện quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật; chức danh Thẩm phán chỉ có trong cơ quan Toà án để làm nhiệm vụ xét xử,... Vì vậy, khi nói đến người THTT là nói đến người duy nhất có thẩm quyền thay mặt Nhà nước tổ chức và thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật TTHS.

 

Trong quá trình giải quyết vụ án, Nhà nước trao cho người THTT những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm được quy định rất cụ thể trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (từ Điều 34 đến Điều 41). Những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm đó chỉ được Nhà nước trao cho người THTT mà không trao cho bất cứ một chức danh nào khác trong bộ máy Nhà nước. Vì vậy, người không phải là người THTT hình sự thì không có quyền thực hiện các hoạt động tố tụng. Nói một cách khác, không ai được phép sử dụng quyền lực Nhà nước để thực hiện việc điều tra, truy tố, xét xử... ngoài những người THTT hình sự.

 

Hai là, người THTT hình sự là hạt nhân của hoạt động tố tụng, tạo nên uy tín, sức mạnh của cơ quan THTT.

 

Nếu như hoạt động của các cơ quan THTT là trung tâm của việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, thì có thể nói, hoạt động của người THTT hình sự là hạt nhân của các cơ quan đó trong việc điều tra, truy tố, xét xử... Hoạt động của người THTT tạo nên sức mạnh, uy tín của cơ quan THTT. Hiệu quả hoạt động của người THTT cũng chính là hiệu quả hoạt động của các cơ quan THTT. Một cơ quan THTT có thể có rất nhiều cán bộ, nhân viên, nhưng chỉ có Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán là người có thẩm quyền tố tụng để thực hiện việc điều tra, truy tố, xét xử, những người còn lại chỉ thực hiện những công việc nhằm mục đích bổ trợ, phục vụ cho các hoạt động tố tụng đó. Chính vì vậy, người THTT hình sự có vai trò đặc biệt quan trọng trong cơ quan THTT, vì hoạt động của họ mang tính chất quyết định kết quả công việc của cơ quan, đơn vị tố tụng đó. Cơ quan THTT mạnh hay yếu, hoạt động có hiệu quả hay không có hiệu quả, phụ thuộc hoàn toàn vào hoạt động của họ, vì hầu hết các hoạt động của họ đều trực tiếp tác động đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó, hoạt động của họ có hiệu quả sẽ tạo nên dư luận xã hội tốt, tạo dựng được uy tín của cơ quan THTT, cao hơn nữa là sự tin tưởng vào tính nghiêm minh, công bằng của pháp luật. Ngược lại, nếu hiệu quả hoạt động của người THTT kém, không bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân sẽ gây nên dư luận bất bình của xã hội và mất lòng tin của nhân dân đối với cơ quan THTT nói riêng và đối với nhà nước XHCN Việt Nam nói chung.

 

Ba là, hoạt động của người THTT góp phần quyết định trong việc bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN.

 

Việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử... là yêu cầu quan trọng nhất đối với người THTT. Vì khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng đúng pháp luật thì việc phát hiện, xác định tội phạm và người phạm tội được chính xác, xử lý nghiêm minh, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đồng thời, hoạt động này có hiệu quả sẽ củng cố hiệu lực của pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN, nâng cao uy tín của bộ máy Nhà nước mà đại diện là các cơ quan bảo vệ pháp luật.

 

Như vậy, người THTT hình sự có vị trí, vai trò rất quan trọng trong bộ máy Nhà nước, không có hoạt động của họ thì nhiệm vụ đấu tranh phòng và chống tội phạm không được đặt ra. Do người THTT hình sự có vị trí, vai trò quan trọng như vậy nên trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã hết sức chú trọng đến đội ngũ này; không chỉ tăng cường về số lượng mà còn tăng cả về chất lượng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động TTHS. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hiệu quả hoạt động của người THTT hình sự còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ so với yêu cầu cải cách tư pháp đặt ra. Điều này có nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân cơ bản là các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người THTT hình sự chưa cụ thể, rõ ràng; những người THTT, như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán là những người trực tiếp thực hiện các hành vi tố tụng, nhưng rất ít thẩm quyền, dẫn đến tình trạng làm giảm vai trò, tính chịu trách nhiệm, tính độc lập và tính hiệu quả hoạt động của những người THTT. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần quy định đầy đủ, rõ ràng, khoa học về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người THTT trong giải quyết các vụ án hình sự, là cơ sở, điều kiện để họ hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Nhà nước giao phó và đáp ứng được yêu cầu do thực tiễn đặt ra.

 

 

Thạc sĩ TRẦN DUY HOÀ

Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương

và PHẠM VIỆT CƯỜNG

Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao

CÁC TIN KHÁC

Tin mới nhất

Thứ 2, 28/4/2025:

06h30:

- Đ/c Thanh - PVT dự lễ viếng Nghĩa trang liệt sĩ tỉnh; dâng hương tại Đài tưởng niệm Núi Nhạn; Nhà trưng bày lưu niệm Luật sư - Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ và Đền thờ liệt sĩ tỉnh.

07h30:

- Chào cờ và nghe các câu chuyện về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

08h00:

- Họp giao ban Lãnh đạo Viện.

08h30:

- Đ/c Viện trưởng và Phòng 15 làm việc với Viện trưởng và Kế toán VKSND cấp huyện.

15h30:

- Đ/c Viện trưởng họp chi bộ.

- Đ/c Liên - PVT nghe Phòng 9 báo cáo án.

 

Thứ 3, 29/4/2025: 

08h00:

- Họp Lãnh đạo Viện.

09h00:

- Họp Đảng ủy.

13h30:

- Đ/c Viện trưởng đi công tác ngoài tỉnh.

15h00:

- Tổng vệ sinh cơ quan (từ 15h00 dọn trong phòng làm việc, hành lang; từ 15h30 tập trung dọn phòng đọc báo, khuôn viên cơ quan).

 

Thứ 4, 30/4/2025 đến thứ 6, 02/5/2025: 

Nghỉ lễ 30/4, 1/5 và nghỉ hoán đổi ngày làm vệc 

Phân công trực cơ quan, trực nghiệp vụ.


Thứ 7, 03/5/2025:

Phân công trực cơ quan

  

Chủ nhật, 04/5/2025:

Phân công trực cơ quan

 

Thông tư liên tịch 02/2025/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC quy định về phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự, quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự khi không tổ chức Công an cấp huyện

Thông tư liên tịch 01/2025/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC-BQP quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Điều 3 Nghị quyết số 164/2024/QH15 của Quốc hội thí điểm xử lý vật chứng, tài sản trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử một số vụ việc, vụ án hình sự

Thông tư liên tịch 01/2025/TTLT-KTNN-VKSNDTC-BCA-BQP quy định về phối hợp giữa Kiểm toán nhà nước, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong việc trao đổi, chuyển thông tin và kiến nghị xem xét, khởi tố vụ việc có dấu hiệu tội phạm được phát hiện thông qua hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước

Thông tư liên tịch 01/2025/TTLT-BCA-BQP-BTP-BNN&PTNT-BTC-VKSNDTC-TANDTC quy định quan hệ phối hợp trong hoạt động giám định tư pháp trong tố tụng hình sự

Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ

Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 54/2019/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2019 của Chính phủ quy định về kinh doanh dịch vụ karaoke, dịch vụ vũ trường