Năm 2005, Phan Văn Thu và một số đối tượng trong tổ chức “Hội đồng công luật công án Bia Sơn” do Thu cầm đầu đã chỉ đạo Nguyễn Văn Hữu, là Tổ trưởng tổ đá thuộc công ty TNHH Quỳnh Long tìm mua vật liệu nổ, kíp nổ để sử dụng phá đá tại Khu du lịch sinh thái Đá Bia nhằm xây dựng căn cứ hoạt động cho tổ chức phản động (Hữu không biết mục đích phá đá để xây dựng căn cứ hoạt động cho tổ chức phản động của Thu).
Trong thời gian từ năm 2007 - 2008, Hữu bảo Huỳnh Đức Minh là công nhân phá đá của Công ty TNHH Quỳnh Long mua thuốc nổ và kíp nổ cho Hữu. Minh gặp Nguyễn Toàn mua 0,3 kg thuốc nổ và mua của nhiều người (không xác định được họ tên, địa chỉ) nhiều lần được 20 kg thuốc nổ và 87 kíp nổ. Minh, Hữu sử dụng thuốc nổ, kíp nổ phá đá.
Khoảng giữa năm 2008, Hữu bảo Võ Văn Phụng mua thuốc nổ và kíp nổ cho Hữu. Phụng mua của một người đàn ông (không xác định được họ tên, địa chỉ) nhiều lần được 17 kg thuốc nổ, mua của Phạm Văn Phong nhiều lần được 13kg thuốc nổ và 25 kíp nổ. Ngoài ra, Phụng còn giới thiệu Phong bán cho Hữu 200 kíp nổ. Đến giữa năm 2010, Phan Thanh Tường tiếp nhận công việc của Hữu. Tường bảo Phụng mua thuốc nổ, Phụng gặp Phong mua cho Tường 02 lần được 12kg thuốc nổ. Đến tháng 02-2012, Cơ quan an ninh điều tra công an tỉnh Phú Yên phát hiện thu giữ 19,4 kg thuốc nổ và 19 kíp nổ.
Tại các bản Kết luận giám định 104, 105, 106, 107 ngày 04-4-2012 của Phân viện KHHS – Bộ Công an tại Đà Nẵng kết luận: Các mẫu giám định đều là thuốc nổ TNT là loại thuốc nổ mạnh thường được dùng trong quân sự. Hai vật hình trụ màu trắng được liên kết với dây điện loại một lõi đồng gửi giám định đều là kíp nổ điện vỏ nhôm. Kíp nổ có tác dụng kích nổ khối thuốc nổ
Bản án sơ thẩm số 16/2014/HSST ngày 07/4/2014 của TAND huyện Đông Hòa đã áp dụng điểm b khoản 2 Điều 232; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS đối với tất cả các bị cáo; áp dụng thêm Điều 47, Điều 60 BLHS đối với các bị cáo Minh, Phụng, Phong; xử phạt Nguyễn Văn Hữu 03 năm tù; Huỳnh Đức Minh 02 năm 06 tháng tù cho hưởng án treo, Võ Văn Phụng 02 năm 06 tháng tù cho hưởng án treo, Phạm Văn Phong 01 năm 06 tháng tù cho hưởng án treo.
Qua kiểm sát bản án, VKSND tỉnh Phú Yên nhận thấy: Bản án sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Nguyễn Văn Hữu, Huỳnh Đức Minh về tội Tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ; các bị cáo Võ Văn Phụng, Phạm Văn Phong về tội Tàng trữ, mua bán trái phép vật liệu nổ, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 232 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Xét hành vi phạm tội của các bị cáo thấy rằng: Bị cáo Nguyễn Văn Hữu mua, tàng trữ 10 lần gồm 50,3kg thuốc nổ, 312 kíp nổ, trong đó có 08 lần mua từ 03-13kg thuốc nổ; bị cáo Huỳnh Đức Minh mua 07 lần gồm 20,3kg thuốc nổ, 87 kíp nổ; trong đó có 04 lần mua từ 02-10 kg thuốc nổ; bị cáo Võ Văn Phụng mua, tàng trữ 07 lần gồm 42 kg thuốc nổ, 25 kíp nổ, trong đó có 06 lần mua 03-13kg thuốc nổ; bị cáo Phạm Văn Phong bán 25 kg thuốc nổ, 25 kíp nổ, trong đó có 06 lần bán từ 03-07 kg thuốc nổ, là trường hợp phạm tội nhiều lần. Bản án sơ thẩm không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội nhiều lần”, quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS để lượng hình dẫn đến quyết định hình phạt các bị cáo chưa tương xứng với tính chất hành vi phạm tội và hậu quả các bị cáo gây ra.
Mặc khác, theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 01 ngày 06/11/2013 của Hội đồng thẩm phán TANDTC: Chỉ xem xét cho người bị xử phạt tù cho hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây: “ Không có tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại khoản 1 Điều 48 của BLHS và có từ hai tình tiết giảm nhẹ TNHS trở lên trong đó có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS; nếu có một tình tiết tăng nặng TNHS thì phải có từ ba tình tiết giảm nhẹ TNHS trở lên, trong đó có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS ”. Các bị cáo Minh, Phụng, Phong phạm tội mua bán, tàng trữ với số lượng lớn thuốc nổ, có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS, có 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS. Do đó, không đủ điều kiện để xử phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và hưởng án treo, nhưng bản án sơ thẩm lại áp dụng Điều 47 BLHS đối với các bị cáo Minh, Phụng và Điều 60 BLHS để cho các bị cáo Minh, Phụng, Phong hưởng án treo là trái với Nghị quyết số 01 của Hội đồng thẩm phán TANDTC.
Từ đó, Viện KSND tỉnh Phú Yên đã kháng nghị theo hướng áp dụng thêm tình tiết “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS, tăng hình phạt đối với các bị cáo, không cho các bị cáo Minh, Phụng, Phong hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm mới đây, TAND tỉnh Phú Yên đã chấp nhận toàn bộ kháng nghị của VKSND tỉnh; tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn Hữu 04 năm tù; Huỳnh Đức Minh và Võ Văn Phụng mỗi bị cáo 03 tù; Phạm Văn Phong 02 tù.
HỒ LƯU - KIM LOAN