Theo hồ sơ, chị ĐTBN và anh HKĐ cùng trú tại huyện Phú Hòa kết hôn vào năm 2012, có 02 con chung sinh năm 2013 và năm 2014. Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng êm ấm, hạnh phúc, nhưng không được bao lâu sau anh Đ sinh thói bài bạc rồi về nhà đánh đập vợ. Chị N đã cố gắng chịu đựng nhưng anh Đ vẫn tính nào tật nấy nên tháng 02/2017 chị N cùng 02 con về nhà cha mẹ sống và nộp đơn xin ly hôn tại TAND huyện Phú Hòa.
Quá trình thụ lý, giải quyết đơn xin ly hôn của chị N, Tòa án đã nhiều lần triệu tập nhưng anh Đ đều vắng mặt nên không tống đạt thông báo thụ lý vụ án cho anh Đ được. Qua xác minh xác định anh Đ không có mặt ở địa phương, cả chị N cũng không biết anh Đ đang ở đâu. Do đó, chị N đã rút đơn khởi kiện để xác định địa chỉ của anh Đ. Và ngày 18/4/2017, TAND huyện đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
Đến tháng 6/2017 chị N tiếp tục làm đơn xin ly hôn lần thứ hai. Tuy nhiên, qua xác minh anh Đ vẫn vắng mặt tại địa phương nên chị N lại rút đơn khởi kiện và Tòa án một lần nữa phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
Sau hai lần khởi kiện xin ly hôn không thành, tháng 10/2017 chị N lại viết đơn rồi cùng bố mẹ đến Tòa án đề nghị xem xét, giải quyết việc ly hôn.
Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án (có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2017): “Trường hợp sau khi thụ lý vụ án, Tòa án không tổng đạt được thông báo về việc thụ lý vụ án do bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không còn cư trú, làm việc hoặc không có trụ sở tại địa chỉ mà nguyên đơn cung cấp thì Tòa án giải quyết như sau:…a) Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ được ghi trong giao dịch, hợp đồng bằng văn bản thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở”. Trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thay đổi nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tổng đạt được cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”.
Căn cứ hướng dẫn trên, TAND huyện Phú Hòa đã tiến hành thụ lý vụ án, tống đạt hợp lệ cho anh Đ theo quy định tại Điều 177, Điều 179 BLTTDS: “Trường hợp người được cấp, tống đạt, thông báo vắng mặt ở nơi cư trú mà không rõ thời điểm trở về hoặc không rõ địa chỉ nơi cư trú mới của họ thì người thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo phải lập biên bản về việc không thực hiện được việc cấp, tống đạt, thông báo, có xác nhận của đại diện tổ dân phố hoặc Công an xã, phường, thị trấn; đồng thời, thực hiện thủ tục niêm yết công khai văn bản cần tống đạt theo quy định tại Điều 179 của Bộ luật này…”.
Sau đó, TAND huyện Phú Hòa đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, công khai chứng cứ, hòa giải không thành và đưa vụ án ra xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, chị N được ly hôn với anh Đ, giao 02 con chung cho chị N nuôi dưỡng và anh Đ có trách nhiệm cấp dưỡng 1.300.000 đồng/tháng cho hai cháu...
Lê Trung Hậu