Luật hôn nhân và gia đình quy định: Tòa án giải quyết cho ly hônnếu có căn cứ về việc vợ, chồng vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ củavợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
Luật quy định là vậy, tuy nhiên, trên thực tế có nhiều vụ án mà lý do để tòa cho ly hôn rất đáng để mọi người suy ngẫm…
* Từ: Vợ bỏ đi
TAND huyện Sơn Hòa vừa xét xử vụ án xin ly hôn giữa anh HM và chị PTBH, đã chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn, cho anh M được ly hôn chị H. Đây là vụ án xin ly hôn khá hy hữu, bởi anh M xin ly hôn trong khi không biết vợ mình đang ở đâu…
Theo trình bày của anh M, anh và chị H tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn vào năm 2008. Thời gian đầu, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc; có 01 con chung là HKT, sinh năm 2011. Sau đó, tình cảm vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, sống mất lòng tin, chị H vay mượn bên ngoài nhiều nơi mà không cho anh biết…Hiện nay, chị H mang con bỏ nhà đi đâu không rõ. Ngày 11/5/2017, anh có đơn yêu cầu tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú đối với H và tòa án đã làm thủ tục nhắn tin tìm kiếm chị H trên phương tiện thông tin đại chúng theo đúng quy định nhưng không có kết quả. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh xin ly hôn chị H. Về con chung, vợ chồng anh có 01 con chung, sinh năm 2011, hiện chị H mang cháu đi đâu không rõ tin tức; khi nào có địa chỉ cụ thể thì anh sẽ khởi kiện tranh chấp việc nuôi con. Về tài sản chung và nợ anh yêu cầu tòa giải quyết.
HĐXX xét thấy khi chị H bỏ đi, anh M đã tích cực tìm kiếm nhưng không có kết quả. Như vậy, đời sống vợ chồng giữa anh M và chị H đã mâu thuẫn đến mức trầm trọng, sống không có hạnh phúc. Từ đó, đã chấp nhận cho anh M được ly hôn chị H. Anh H phải chịu chi phí tìm kiếm chị H 2,5 triệu đồng và 300.000đ án phí sơ thẩm.
* Đến: Chồng bỏ đi
Cũng với lý do một bên bỏ đi, nhưng khác với vụ việc nói trên, trong vụ dưới đây thì người chồng bỏ nhà đi không có tin tức gì, nên người vợ đã đệ đơn ra tòa xin ly hôn. Và TAND huyện Phú Hòa trong phiên xử mới đây đã chấp nhận yêu cầu này.
Theo hồ sơ, chị V và anh H tự nguyện tìm hiểu, đi đến kết hôn với nhau được UBND xã cấp giấy chứng nhận kết hôn năm 2015. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc bên nhà cha mẹ chị V khoảng một năm rưỡi. Do trước đó anh H đã có vợ, có con nhưng ly hôn nên trong quá trình chung sống với chị V anh H thỉnh thoảng về thăm con. Đến tháng 5/2016, anh H bỏ nhà ra đi đến nay không có tin tức gì. Theo chị V, anh H bỏ nhà đến ở với vợ cũ; đến nay giữa chị và anh H đã ly thân hơn 01 năm, chị không còn tình cảm gì với anh H nên xin được ly hôn. Vợ chồng chưa có con chung, tài sản chung cũng không có nên chị V không yêu cầu tòa giải quyết.
Bà TTDT - mẹ của anh H, trình bày về tình trạng hôn nhân của anh H và chị V như nói trên. Bà có nhận được giấy triệu tập của tòa án, đã thông báo cho anh H nhưng H bảo “ Nếu V muốn ly hôn thì H đồng ý ly hôn với V, về con chung, tài sản chung, nợ chung không có gì nên không yêu cầu; V có muốn làm gì thì tự làm chứ H không về và không lên tòa án, tòa án muốn làm gì thì làm”. Vì vậy, bà T đề nghị tòa giải quyết vắng mặt H theo quy định của pháp luật.
Xét thấy hôn nhân giữa anh H và chị V không hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn nên TAND huyện Phú Hòa đã chấp nhận yêu cầu của chị V, cho chị được ly hôn với anh H.
* Và: Vợ chồng không liên lạc được với nhau
TAND tỉnh Phú Yên vừa mới xét xử hai vụ án xin ly hôn có những tình tiết khá giống nhau, đặc biệt là về lý do xin ly hôn, có khác ở chỗ vụ này thì người chồng làm đơn xin ly hôn, vụ kia thì người vợ làm đơn...
Vụ thứ nhất: Anh TVS và chị NTMT (địa chỉ cư trú tại Mỹ) tìm hiểu và kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND tỉnh năm 2007. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống được khoảng một tháng thì chị T quay trở về Mỹ để làm thủ tục bảo lãnh cho anh S sang đoàn tụ. Tuy nhiên, từ đó đến nay chị T không về nước, vợ chồng cũng không liên lạc được với nhau nữa. Vì vậy, tháng 3/2017 anh S làm đơn yêu cầu tòa án cho ly hôn với chị T để ổn định cuộc sống.
Vụ thứ hai: Bà NTT và anh PT (địa chỉ cư trú tại Mỹ) kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND tỉnh năm 2014. Sau khi kết hôn, vợ chồng cũng chung sống được khoảng một tháng thì anh PT quay trở về Mỹ để làm thủ tục bảo lãnh chị T sang đoàn tụ. Nhưng sau đó anh PT không về nước, hai bên cũng không liên lạc được với nhau. Vì vậy, tháng 3/2017 chị T làm đơn yêu cầu tòa án cho ly hôn với anh PT.
Cả hai vụ nói trên, tòa án đều chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn.
TRẦN THU