Ngày 8/5/2020, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm TANDTC đã ra phán quyết về bản án kết tội đối với Hồ Duy Hải. Trong các nội dung nghị án, HĐXX nhận định kháng nghị giám đốc thẩm của VKSNDTC là trái pháp luật. Dưới góc độ học thuật, để làm rõ tính hợp pháp của quyết định kháng nghị trong trường hợp, chúng tôi cho rằng cần phải làm rõ các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, hội đồng giám đốc thẩm có thẩm quyền xem xét về tính hợp pháp của quyết định kháng nghị giám đốc thẩm hay không?
Căn cứ Điều 388 BLTTHS, Hội đồng giám đốc thẩm có các thẩm quyền y án, sửa án, hủy án, đình chỉ việc xét xử giám đốc thẩm đối với bản án đã có hiệu lực pháp luật. Có thể nhận thấy, các thẩm quyền trên đây được thực hiện đối với bản án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, do phát hiện có sai sót về thủ tục tố tụng hoặc sai lầm trong áp dụng luật nội dung.
Như vậy, đối tượng bị HĐXX giám đốc thẩm xem xét là bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Kháng nghị của chủ thể có thẩm quyền không phải là đối tượng bị xem xét mà chỉ là căn cứ, lý do để mở thủ tục giám đốc thẩm.
Việc ra phán quyết của Hội đồng giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định bị kháng nghị chỉ dựa trên cơ sở nhận định về tính có căn cứ của quyết định kháng nghị (tức là vụ án có hay không sai sót nghiêm trọng về tố tụng hoặc sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng luật nội dung), không dựa trên cơ sở xem xét tính hợp pháp của việc kháng nghị (bao gồm căn cứ đó có được quy định trong BLTTHS hay không, thủ tục, thẩm quyền và trình tự kháng nghị).
Vì vậy, Hội đồng giám đốc thẩm chỉ được nhận định về tính có căn cứ của việc kháng nghị mà không có quyền biểu quyết về tính hợp pháp. Quyền nhận định này thuộc về chủ thể có chức năng giám sát, thuộc nhánh quyền lập pháp.
Mặt khác, TAND tối cao đã thụ lý kháng nghị giám đốc thẩm của VKSND tối cao. Sau 4 tháng chuẩn bị, TAND tối cao quyết định mở phiên toà giám đốc thẩm. Điều đó đồng nghĩa với việc thừa nhận kháng nghị là hợp pháp, vì nếu kháng nghị không hợp pháp do được thực hiện trong giai đoạn thi hành án thì việc giải quyết theo thủ tục tố tụng cũng trở nên không hợp pháp. Thay vì mở phiên tòa, TAND tối cao có thể không thụ lý kháng nghị hoặc trao đổi để VKSND tối cao rút kháng nghị trong giai đoạn nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị xét xử.
Thứ hai, VKS đã trả lời không kháng nghị thì có được kháng nghị lại không?
Trong quá trình thực hành quyền công tố, VKS có thể ban hành nhiều quyết định tố tụng khác nhau liên quan đến việc giải quyết vụ án, đồng thời cũng có quyền rút, thay đổi, hủy bỏ các quyết định tố tụng đã ban hành, nhằm đảm bảo truy cứu trách nhiệm hình sự người đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Việc VKSND tối cao đã từng trả lời không kháng nghị, sau đó tiếp tục có quyết định kháng nghị là không mâu thuẫn. Điều này cũng phù hợp với thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, đó là “việc kháng nghị theo chiều hướng có lợi cho người bị kết án nên có thể được tiến hành bất cứ lúc nào” theo quy định tại khoản 2 Điều 379 BLTTHS. Tuy nhiên, sẽ là hợp lý hơn nếu trước khi ban hành quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, VKS ra quyết định rút quyết định không kháng nghị trước đó, thay vì điều khoản thay thế trong quyết định kháng nghị đã ban hành.
Thứ ba, việc Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm có phải là hoạt động kết thúc giai đoạn xét xử, chuyển sang giai đoạn thi hành án, và do đó VKS không còn quyền kháng nghị đối với vụ án không?
Theo quy định của BLTTHS và Luật thi hành án hình sự, thủ tục xét ân giảm đối với người bị kết án tử hình là một thủ tục nằm trong giai đoạn thi hành án. Tuy nhiên, không phải trong giai đoạn thi hành án thì mọi hoạt động tố tụng đối với vụ án đó sẽ bị triệt tiêu. Bởi lẽ:
+ Về căn cứ pháp lý, theo Điều 367 BLTHS về thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi thi hành thì sau khi bản án kết án tử hình có hiệu lực pháp luật, TAND tối cao và VKSND tối cao phải xem xét có kháng nghị hay không. Thời hạn xem xét quyết định việc kháng nghị là 2 tháng.
Đồng thời, cũng trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày bản án kết án tử hình có hiệu lực pháp luật, người bị kết án có quyền gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước. Như vậy, thủ tục xem xét để kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án tử hình và thủ tục xét ân giảm bản án tử hình là hai thủ tục độc lập, cùng được xác định trong thời hạn tính từ thời điểm bản án có hiệu lực pháp luật, không phải là hai thủ tục tiếp nối nhau.
Mặt khác, việc xem xét, quyết định kháng nghị của chủ thể có thẩm quyền là một hoạt động tố tụng, với đối tượng xem xét là bản án đã có hiệu lực pháp luật; dựa trên những căn cứ pháp lý được quy định cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự. Trong khi đó, việc xem xét cho ân giảm của Chủ tịch nước là thủ tục hành chính, trên tinh thần nhân đạo, khoan hồng, với đối tượng xem xét là người đã bị kết án (tử hình). Hai thủ tục này khác nhau hoàn toàn về tính chất và đối tượng, do đó không có tính loại trừ nhau.
Vì vậy, thủ tục xét ân giảm không phải là thủ tục cuối cùng trước khi đưa người bị kết án ra thi hành nên không thể loại trừ hoàn toàn các hoạt động tố tụng, ví như việc kháng nghị giám đốc thẩm.
+ Về cơ sở lý luận, trong giai đoạn thi hành án, cụ thể là thi hành bản án tử hình, một số hoạt động tố tụng vẫn có thể được thực hiện.
Ví dụ: Hội đồng thi hành án tử hình có thể ra quyết định tạm hoãn thi hành án nếu ngay trước khi thi hành án, người bị kết án tử hình khai báo những tình tiết mới về tội phạm, hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 40 của Bộ luật hình sự.
Trong các trường hợp đó, một số quyết định tố tụng mới sẽ được ban hành như quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, quyết định chuyển bản án tử hình thành hình phạt tù chung thân… Như vậy, có thể thấy quyết định bác đơn xin ân giảm hình phạt tử hình của Chủ tịch nước không triệt tiêu các hoạt động tố tụng khác của chủ thể tiến hành tố tụng, nếu căn cứ của các hoạt động đó mới xuất hiện hoặc vẫn tồn tại trong vụ án.
+ Về căn cứ thực tế, trong vụ án Hồ Duy Hải, mặc dù Chủ tịch nước đã từng bác đơn xin ân giảm đối với người bị kết án nhưng tại nhiều thời điểm sau đó, Chủ tịch nước cũng có ý kiến tạm dừng việc thi hành tử hình hoặc yêu cầu Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao xem xét, làm rõ và quyết định theo thẩm quyền nhằm đảm bảo việc kết án tử hình là đúng quy định của pháp luật. Như vậy thực tế giải quyết vụ án cho thấy, Chủ tịch nước cũng đã có ý kiến để Viện trưởng VKSND tối cao xem xét lại vụ án theo thẩm quyền.
Thứ tư, quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của VKSND tối cao có đúng quy định của BLTTHS không?
Như bất kỳ quyết định tố tụng nào khác, quyết định kháng nghị giám đốc thẩm được coi là đúng pháp luật (đảm bảo tính hợp pháp) khi thỏa mãn các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục, thời hạn kháng nghị.
Trong trường hợp này, vụ án được kháng nghị giám đốc thẩm do phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong phán quyết, như vậy thỏa mãn căn cứ kháng nghị quy định tại khoản 2 Điều 371 BLTTHS.
Vụ án được kháng nghị đúng thẩm quyền, thủ tục và thời hạn theo quy định của BLTTHS. Đặc biệt, việc kháng nghị theo chiều hướng có lợi cho người bị kết án nên không bị giới hạn về thời gian cũng như không bị phụ thuộc vào các thủ tục tố tụng khác đã phát sinh cho đến thời điểm ra kháng nghị.
Với những lập luận trên đây, dưới góc độ học thuật, có thể thấy rằng kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng VKSND tối cao đối với vụ án Hồ Duy Hải là không trái pháp luật.
Nguồn: baovephapluat.vn