Huỳnh Ngọc Thanh Phó Viện trưởng VKSND tỉnh Phú Yên |
Thực hành quyền công tố là một trong hai chức năng hiến định của Viện kiểm sát nhân dân. khoản 1, Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” và Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 cũng quy định: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Đ/c Huỳnh Ngọc Thanh, Phó Viện trưởng VKSND tỉnh Phú Yên
phát biểu kết luận Hội nghị
Theo quy định tại khoản 1, Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì:“Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”nhằm bảo đảm: mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội;không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật.
Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan duy nhất được giao thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, “không ai có thể thay thế VKS trong việc thực hành quyền công tố, việc bắt, giam, giữ, điều tra, truy tố, xét xử có để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm hay không, có đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không, đó là việc VKS phải trông nom, đảm bảo cho tốt”.
Tiếp tục quán triệt đầy đủ, sâu sắc và triển khai thực hiện nghiêm túc chủ trương của Đảng về "Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra" đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, ngày 6/12/2013, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Chỉ thị số 06/CT-VKSTC về "Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm" nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm; bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất việc bỏ lọt tội phạm, kiên quyết không để xảy ra oan, sai.
Qua 5 năm triển khai thực hiện Chỉ thị 06/CT-VKSTC, Viện KSND tỉnh Phú Yên và các VKSND huyện, thị xã, thành phố đã triển khai nhiều biện pháp nhằm thực hiện chủ trương “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”, kết quả bước đầu đã tạo được sự chuyển biến tích cực về nhận thức, góp phần nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự, hạn chế đáng kể các trường hợp oan, sai và bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên, vẫn còn một số cán bộ, Kiểm sát viên chưa làm hết trách nhiệm, thiếu chủ động, chưa gắn công tố với hoạt động điều tra, có trường hợp bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội, gây bức xúc dư luận.
Quang cảnh Hội nghị
Trước diễn biến của tình hình tội phạm ngày càng phức tạp, nghiêm trọng, tinh vi, xảo quyệt, nhất là tội phạm về tham nhũng, chức vụ, môi trường, tội phạm công nghệ cao, tội phạm hoạt động theo kiểu băng nhóm, tín dụng đen, xâm hại trẻ em… đòi hỏi Ngành KSND phải không ngừng nâng chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là người đứng đầu các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ năng lực thực thi pháp luật. Nâng cao hơn nữa chất lượng THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp; thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp phòng chống oan, sai, bỏ lọt tội phạm, xác định nhiệm vụ chống oan, sai, bỏ lọt tội phạm là nhiệm vụ xuyên suốt, quan trọng hàng đầu của Ngành, là nhiệm vụ trọng tâm nhất của đơn vị nghiệp vụ và là yêu cầu số một của mỗi Kiểm sát viên.
Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, VKSND tỉnh các VKSND huyện, thị xã, thành phố tập trung thực hiện tốt các giải pháp sau đây:
Một là: Tiếp tục quán triệt đầy đủ, sâu sắc và triển khai thực hiện nghiêm túc chủ trương của Đảng và Chỉ thị 06/CT-VKSTC về "Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm", Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 và Nghị quyết số 63/2013/QH13 ngày 27/11/2013 của Quốc hội về "Tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm". Đây là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của ngành Kiểm sát nhân dân trong thời gian tới.
Hai là: Phải kiểm sát chặt chẽ việc tiếp nhận, giải quyết đối với toàn bộ tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/12/2017 quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nhằm chống oan, sai, bỏ lọt tội phạm tội phạm ngay từ đầu, xem đây là khâu quan trọng, đầu vào để giải quyết án.
Hàng tuần, hàng tháng phải kiểm sát, nắm chắc việc tiếp nhận, phân loại, xử lý nguồn tin về tội phạm của Cơ quan điều tra, phân công Kiểm sát viên trực nghiệp vụ 24/24 giờ trong ngày để kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, tử thi, xét phê chuẩn việc bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, kiểm sát chặt chẽ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của CQĐT, trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường hợp quy định tại điểm c, khoản 3, điều 145 BLTTHS. Đối với những vụ việc phức tạp, quan điểm không thống nhất, phải kịp thời báo cáo Lãnh đạo Viện chỉ đạo họp liên ngành để đánh giá và bàn biện pháp giải quyết. Trường hợp liên ngành không thống nhất thì báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Liên ngành cấp trên.
Định kỳ, Viện kiểm sát phối hợp với Cơ quan điều tra cùng cấp đánh giá tình hình tội phạm, kết quả tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm để chủ động phát hiện, đấu tranh, phòng chống tội phạm; thường xuyên hoặc đột xuất kiểm sát trực tiếp việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra. Viện kiểm sát cấp huyện kịp thời báo cáo Viện kiểm sát tỉnh về những vụ, việc nghiêm trọng, phức tạp hoặc có khó khăn, vướng mắc để chỉ đạo giải quyết kịp thời.
Ba là: Phải chủ động phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra ngay từ khi phát hiện tội phạm và trong suốt quá trình điều tra; giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc phát sinh; phát hiện và yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục những thiếu sót, vi phạm; đảm bảo việc xử lý vụ án có căn cứ, đúng pháp luật. Khi xem xét, phê chuẩn các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, nếu đủ căn cứ thì phê chuẩn ngay tạo thuận lợi cho việc điều tra phá án; nếu chưa đủ căn cứ thì yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung tài liệu, chứng cứ; nếu thấy không có căn cứ, trái pháp luật thì kiên quyết không phê chuẩn hoặc yêu cầu hủy bỏ theo quy định của pháp luật. Trường hợp người bị bắt, người bị khởi tố không nhận tội, tài liệu chứng cứ có mâu thuẫn hoặc chưa rõ, thì trước khi xem xét, phê chuẩn, Kiểm sát viên phải trực tiếp lấy lời khai người bị bắt, hỏi cung bị can để xem xét, đề xuất phê chuẩn có căn cứ, chống lạm dụng việc bắt khẩn cấp hoặc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Trong trường hợp hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp ngăn chặn khác cần có sự phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra, không để bị can phạm tội mới, bỏ trốn hoặc gây ra hậu quả nghiêm trọng khác.
Bốn là: Phải chủ động, tích cực đề ra yêu cầu điều tra bảo đảm có căn cứ, sát với nội dung vụ án. Kiểm sát viên phải nắm chắc tiến độ điều tra, thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, yêu cầu Điều tra viên cung cấp ngay những tài liệu, chứng cứ mới thu thập được để xử lý vụ án kịp thời; trường hợp có dấu hiệu tội phạm nhưng chưa được khởi tố phải kiên quyết yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án, khởi tố bị can nhằm chống bỏ lọt tội phạm. Trường hợp Cơ quan điều tra không thực hiện yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát, phải kiểm tra nguyên nhân và có biện pháp phối hợp giải quyết. Phải phân công Kiểm sát viên có kinh nghiệm, năng lực để thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với vụ án hình sự. Kiểm sát viên được phân công thụ lý vụ án phải lập hồ sơ kiểm sát, trích cứu tài liệu, mở sổ nhật ký cập nhật kịp thời, đầy đủ các thông tin, diễn biến quá trình điều tra, giải quyết vụ án.
Năm là: Trước khi kết thúc điều tra vụ án hình sự, Kiểm sát viên phải nghiên cứu thật kỹ hồ sơ, xem xét, đánh giá khách quan, toàn diện các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được. Đối với những trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, bị can không nhận tội, Kiểm sát viên phải trực tiếp hỏi cung tổng hợp làm rõ việc nhận tội hoặc không nhận tội của bị can để tiếp tục yêu cầu Cơ quan điều tra thu thập đầy đủ cả chứng cứ buộc tội và gỡ tội, không để kết thúc điều tra vụ án mới đề xuất trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Sáu là: Khi ban hành các quyết định xử lý vụ án hình sự phải đảm bảo có căn cứ, đúng pháp luật; việc truy tố phải đúng người, đúng tội danh, đúng thời hạn luật định; kiểm sát chặt chẽ các trường hợp tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra để bảo đảm có căn cứ, đúng pháp luật, khắc phục việc lạm dụng khoản Điều 29 Bộ luật hình sự để đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự không đúng quy định của pháp luật; thường xuyên đôn đốc việc bắt truy nã để phục hồi điều tra và truy cứu trách nhiệm hình sự. Viện kiểm sát tỉnh phối hợp với Cơ quan CSĐT Công an tỉnh tăng cường kiểm tra việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, trực tiếp iểm tra các quyết định đình chỉ điều tra của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cấp huyện để kịp thời phát hiện, hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật, bảo đảm chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Trong phạm vi trách nhiệm, quyền hạn được giao, nếu để xảy ra oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm thì trước hết, Thủ trưởng đơn vị, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh.
Bảy là: Phải bảo đảm sự tham gia của người bào chữa và người tham gia tố tụng khác theo quy định của pháp luật; tạo điều kiện để người bào chữa nghiên cứu hồ sơ, có mặt trong giai đoạn điều tra vụ án; tôn trọng và xem xét đầy đủ, kịp thời ý kiến của người bào chữa, người tham gia tố tụng khác theo quy định của pháp luật, nhằm bảo đảm việc điều tra, thu thập chứng cứ khách quan, toàn diện và đúng pháp luật.
Tám là: Phải chủ động, tích cực phối hợp với Cơ quan điều tra cùng cấp, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc yêu cầu kết thúc điều tra các vụ án hình sự trong thời hạn luật định, nhất là các vụ án lớn về kinh tế, chức vụ, tham nhũng; kịp thời phát hiện, báo cáo Cục điều tra VKSTC khởi tố điều tra, xử lý nghiêm minh các hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp; tích cực phối hợp cùng các ban, ngành hữu quan làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm.
Chín là: Triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 33-CT/TU ngày 08/5/2019 của BTV Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp trong việc giải quyết các vụ án tồn, án bị hủy để điều tra, xét xử lại, yêu cầu các phòng 1, 3, 7 tăng cường quản lý, chỉ đạo, VKS cấp huyện phối hợp với CQĐT, Tòa án tập trung giải quyết dứt điểm các vụ án tồn, án hủy trong năm 2019. Đối với những vụ phức tạp hoặc có quan điểm khác nhau, cần tổ chức họp liên ngành để bàn giải quyết, nếu không thống nhất thì báo cáo thỉnh thị liên ngành cấp trên xin ý kiến chỉ đạo. VKSND cấp huyện phải nghiên cứu, thực hiện nghiêm túc ý kiến chỉ đạo, trả lời thỉnh thị của các phòng nghiệp vụ, nếu không thống nhất thì báo cáo Lãnh đạo Viện tỉnh xem xét giải quyết, đảm bảo nguyên tắc tập trung thống nhất trong Ngành. Các phòng nghiệp vụ phải nâng cao trách nhiệm trong việc quản lý, theo dõi, chỉ đạo, trả lời thỉnh thị án cấp huyện thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ được phân công. Đối với những vụ khó khăn, phức tạp kéo dài thì phân công biệt phái Kiểm sát viên trung cấp trực tiếp nghiên cứu, giải quyết án giúp cho cấp huyện.