TAND tỉnh Phú Yên vừa mở phiên tòa xét xử theo thủ tục phúc thẩm vụ án tranh chấp ly hôn giữa nguyên đơn VTQ với bị đơn NVN (cùng trú tại huyện H).
Theo trình bày của nguyên đơn: Bà Q và ông N tự nguyện tìm hiểu, tổ chức cưới và đăng kỷ kết hôn vào năm 1991 tại UBND xã A, huyện H. Vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian thìxảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do lối sống không phù hợp, không cùng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra kình cãi, bạo lực gia đình, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc mâu thuẫn xảy ra nhiều lần, nhưng bà Q cam chịu. Hai người sống ly thân một thời gian và xa nhau từ tháng 4/2021 đến nay không ai quan tâm đến ai. Nay bà Q nhận thấy không còn tình cảm và không thể tiếp tục chung sống nên yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với ông N để ổn định cuộc sống.
Về con chung: Vợ chồng có 04 con chung thì ba người đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết, con chung NVL ở với ai là quyền của con và người đó có trách nhiệm nuôi, không ai phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Vợ chồng có 01 ngôi nhà cấp 4 trên diện tích đất khoảng 1.800m² (659,4m² theo bản vẽ); 11 con bò; 2,5 ha rẫy bạch đàn… Nợ Ngân hàng 50.000.000 đồng tiền gốc và tiền lãi hơn 14 triệu đồng; nhờ một người con đứng tên vay giúp ở Ngân hàng 12.000.000 đồng; nợ bà A hơn 55 triệu đồng.
Nay vợ chồng ly hôn, bà Q xin nhận tài sản chung là căn nhà cấp 4 cùng toàn bộ diện tích đất (659,4m² theo bản vẽ), giao cho ông N nhận 11 con bò và 2,5 ha rẫy bạch đàn. Đối với khoản nợ ngân hàng thì trong quá trình Tòa giải quyết ly hôn ông N đã trả số tiền này, nay bà Q đồng ý trả lại cho ông N số tiền mà ông đã trả; đối với số nợ hơn 55 triệu đồng thì chia đôi mỗi người trả một nửa.
Phía bị đơn thống nhất với nguyên đơn về quan hệ hôn nhân, con chung, quá trình kết hôn đúng như bà Q trình bày.Còn mâu thuẫn vợ chồng thì do bà Q không tin tưởng chồng, nghi ngờ ông N có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, ông N đi làm về mệt, bà Q cằn nhằn mọi lúc kể cả khi ăn cơm nên ông N bực mình có bạt tai một cái, rồi bà Q bỏ đi chứ không đánh đập như bà Q trình bày. Nay bà Q xin ly hôn mặc dù không còn tình cảm nhưng vì con còn nhỏ nên ông N không đồng ý ly hôn để có cả cha lẫn mẹ chăm sóc con đàng hoàng. Nay hai người tự sống không phụ thuộc lẫn nhau, việc ai người đó tự làm không ai quan tâm đến ai. Nếu Tòa giải quyết ly hôn ông N xin nhận nuôi con chung NVL, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Vợ chồng có 0l ngôi nhà cấp 4 trên diện tích đất khoảng 1.000m², phần còn lại là đất 5% của xã ông N phải thuê đã có giấy chứng nhận quyên sử dụng đất; 10 con bò; 2,5 ha rẫy bạch đàn. Vợ chồng có nợ ngân hàng như nguyên đơn trình bày. Còn khoản nợ bà A, ông N chỉ thừa nhận có vay mượn2.500.000 đồng, số nợ còn lại ông không biết nên không chịu trách nhiệm trả.
Bà Q khi bỏ đi đã bán lúa rồi mang tiền đi hết không để lại cho cha con ông nên ông phải vay của người tên L 10.000.000 đồng, phải trả lãi 40.000 đồng/tháng để trang trải, trả các khoản thuế, tiền cám bò, máy tuốt và tiền phân.
Ông N đề nghị Tòa giải quyết tính giá trị trả nợ cho hai ngân hàng, phần còn lại chia làm 03 phần cho hai vợ chồng và con NVL. Khoản vay 10.000.000 đồng ông tự vay nên tự chịu trách nhiệm trả.
Xử sơ thẩm, TAND huyện H chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn: bà VTQ được ly hôn ông NVN.
Về con chung: Giao con chung tên NVL SN 2007 cho ông N tiếp tục nuôi dưỡng; bà Q không phải cấp dưỡng nuôi con, có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
Về tài sản chung: Giao cho bà Q được quyền sử dụng đất và sở hữu nhà cùng các công trình xây dựng trên đất, tổng giá trị 323.746.590 đồng. Giao cho ông N được quyền sở hữu 11 con bò; 2,5 ha bạch đàn, tổng trị giá 319.285.000 đồng. Bà Q phải trả cho ông N phần chênh lệch tài sản được nhận 2.230.795 đồng…
Về các khoản nợ của vợ chồng: Buộc bà Q, ông Nphải trả trả cho bà A số tiền vay còn nợ 55.470.000 đông (chia ra ông N phải trả 27.735.000 đồng, bà Q trả 27.735.000 đồng). Bà Q phải có trách nhiệm trả lại cho ông N số tiền 37.082.000 đồng về khoản tiền ông N đã trả cho ngân hàng nhưng khấu trừ số tiền chi phí định giá và xem xét thẩm định tại chỗ 3.600.000 đống; nên bà Q còn phải trả cho ông Ngọc 33.482.000 đồng.
Sau khi án tuyên, ông N kháng cáo bản án về tài sản chung, nợ chung.
Xử phúc thẩm, TAND tỉnh Phú Yên nhận định: Tại Toà cấp phúc thẩm, ông N khai sau khi bà Q bỏ đi vào tháng 5/2021 ông là người quản lý tài sản, quá trình chăm sóc đàn bò ông đã mua nợ tiền cám bò 13.500.000 đồng, vay ông V 35.000.000 đồng, mượn ông T 3.000.000 đổng, trả thuế ruộng lúa, xây nhà chứa rơm, thú y, cắt lúa... tổng cộng 65.765.000 đồng nên yêu cầu bà Q phải cùng có trách nhiệm trả nợ.
Bà Q khai trước khi bà bỏ đi không sống chung với ông N vào tháng 5/2021 vợ chồng có nuôi 11 con bò. Sau đó, ông N bán hai con bò trị giá 70.600.000 đồng.
Như vậy, để giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, đảm bảo quyển và lợi ích các bên đương sự khi chia tài sản chung cần làm rõ số lượng đàn bò trước khi và sau khi bà Q bỏ đi, có việc ông N bán bò hay không? Sử dụng tiền bán bò vào mục đích gì ? Từ thời điểm bà Qbỏ đi đến thời điểm định giá tải sản ông N trực tiếp chăm đàn bò nên cũng cần làm rõ các khoản tiền ông N đã chi phí hợp lý nuôi bò, xây nhà chứa rơm... để có cơ sở buộc bà Q cùng chịu trách nhiệm các khoản tiền này. Đồng thời, ông N cũng yêu cầu chia số vàng y 03 chỉ bà Q đang quản lý và 02 chỉ vàng thục ruộng của mẹ bà Q; đây là tình tiết mới phát sinh tại cấp phúc thẩm, chưa được xem xét tại cấp sơ thẩm.
Từ đó, TAND tỉnh Phú Yên đã tuyên huỷ một phần bản án sơ thẩm về tài sản chung và nợ chung, giao hồ sơ cho TAND huyện H xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.
T. ANH - N. HUYỀN