Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân, tổ chức về công chứng, chứng thực, góp phần phục vụ sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, đồng thời tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng, chứng thực, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng, chứng thực thì sự ra đời các văn bản pháp luật về công chứng, chứng thực là một đòi hỏi vô cùng quan trọng và tất yếu. Bởi lẽ vấn đề công chứng, chứng thực hiện diện hàng ngày trong các giao lưu dân sự mà ở đó các đương sự cần được đảm bảo về tính chính xác, tính hợp pháp nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình cũng như tạo điều kiện để các văn bản được công chứng, chứng thực giải quyết được yêu cầu chính đáng của người dân.
Tuy vậy, vấn đề nổi cộm hiện nay là việc chứng thực chữ ký cho một bên đang chấp hành án phạt tù tại trại giam lại là vấn đề gặp phải những vướng mắc trong quá trình thực hiện việc công chứng, chứng thực. Thực tiễn phát sinh đối với vấn đề công chứng, chứng thực chữ ký của người đang bị thi hành án phạt tù đối với các hợp đồng dân sự, các văn bản ủy quyền khi không có mặt người cần phải ký vào văn bản công chứng trước mặt công chứng viên, hoặc trước mặt người chứng thực thì không thể công chứng, chứng thực cho những loại hợp đồng, văn bản này…
Nghị định số 75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực quy định rõ phạm vi công chứng, chứng thực, nguyên tắc hoạt động, thủ tục, trình tự thực hiện công chứng, chứng thực. Đối với những địa phương chưa có tổ chức hành nghề công chứng thì Uỷ ban nhân dân cấp xã, huyện vẫn là những cơ quan có thẩm quyền chứng thực các hợp đồng, giao dịch phục vụ cho yêu cầu của người dân trong các quan hệ dân sự. Luật Công chứng năm 2006 ra đời đã góp phần đảm bảo thực hiện thủ tục công chứng các hợp đồng, giao dịch đúng quy định, đảm bảo an toàn pháp lý cho công chứng viên và các bên giao dịch.
Tuy nhiên, nhiều quy định về công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản về mặt thủ tục pháp lý chưa được rõ ràng, cụ thể, nhất là đối với trường hợp công chứng, chứng thực cho người đang chấp hành án phạt tù, dẫn đến khó khăn cho các bên giao kết hợp đồng. Như trường hợp công chứng, chứng thực hợp đồng thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất và nhà ở giữa Ngân hàng A và vợ chồng ông Nguyễn Văn Hơn, bà Lê Thị Nở ở xã H, huyện N. Vướng mắc phát sinh là ông Hơn đang chấp hành án phạt tù nên không thể có mặt trực tiếp ký vào hợp đồng thế chấp nhà ở và quyền sử dụng đất trước mặt người chứng thực là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã. Trong khi tài sản là nhà ở và quyền sử dụng đất để thế chấp là tài sản chung của vợ chồng, ông Hơn đã viết văn bản ủy quyền cho bà Nở để thế chấp vay vốn tại Ngân hàng nhưng chữ ký của ông Hơn không được chứng thực vì ông Hơn không thể có mặt tại UBND xã để ký vào văn bản. Việc chứng thực chữ ký trong văn bản ủy quyền cho ông Hơn gặp vướng mắc dẫn đến việc công chứng hợp đồng thế chấp nêu trên giữa Ngân hàng và vợ chồng ông không được thực hiện…hoặc một trường hợp khác, Ủy ban nhân dân xã B, huyện S cũng nhận được yêu cầu chứng thực chữ ký trong văn bản ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Phạm Hữu Hậu với bà Mai Thị Hà. Tuy nhiên, ông Hậu hiện đang chấp hành án phạt tù tại trại giam Công an tỉnh P nên không thể có mặt tại UBND xã Hòa An để thực hiện việc chứng thực chữ ký trong văn bản ủy quyền, dẫn đến người ủy quyền không có quyền giao kết hợp đồng chuyển nhượng nêu trên.
Theo quy định của Bộ luật Hình sự , người đang chấp hành án phạt tù chỉ bị hạn chế một số quyền công dân như đi lại, cư trú,không được quyền ứng cử, quyền bầu cử đại biểu vào cơ quan quyền lực Nhà nước, không được quyền tham gia thành lập doanh nghiệp…các quyền còn lại của người bị kết án tù vẫn được bảo đảm, trừ một số quyền bị tước hay hạn chế khác theo bản án có hiệu lực của Tòa án. Họ lại càng không thuộc đối tượng là người bị mất năng lực hành vi dân sự hay hạn chế năng lực hành vi dân sự theo các theo Điều 22, Điều 23 Bộ luật Dân sự. Vì vậy, việcgiao kết hợp đồng, giao dịch công chứng đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của họ nếu như tài sản đó không thuộc đối tượng bị tịch thu theo Điều 40 và Điều 41 Bộ luật Hình sự hay bị Cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp đảm bảo thi hành án theo Điều 66 Luật Thi hành án dân sự vẫn được đảm bảo.
Căn cứ các quy định về công chứng, chứng thực đối với loại hợp đồng, văn bản mà một bên giao dịch, bên yêu cầu đang chấp hành án phạt tù, tại khoản 2, Điều 39 Luật Công chứng quy định: “ Việc công chứng có thể được thực hiện ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng trong trường hợp người yêu cầu công chứng là người già yếu không thể đi lại được, người đang bị tạm giữ, tạm giam, đang thi hành án phạt tù hoặc có lý do chính đáng khác không thể đến trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng”. Thông tư số 03 hướng dẫn Nghị định số 75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực cũng quy định:Việc công chứng, chứng thực phải được thực hiện tại trụ sở cơ quan công chứng, chứng thực, trừ các trường hợp sau đây có thể được thực hiện ngoài trụ sở “Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và chữ ký của người đang bị tạm giam hoặc thi hành án phạt tù, người bị bại liệt, người già yếu không thể đi lại được hoặc có lý do chính đáng khác không thể đến trụ sở cơ quan công chứng, chứng thực. Đối với mọi trường hợp đều phải ghi địa điểm công chứng, chứng thực; riêng việc công chứng, chứng thực được thực hiện ngoài giờ làm việc, thì phải ghi thêm giờ, phút mà người thực hiện ký vào văn bản công chứng, văn bản chứng thực”…
Tuy nhiên, chưa có quy định nào hướng dẫn cụ thể cách thức, thủ tục khi liên hệ làm việc với cơ quan thi hành án hình sự, Trại tạm giam, Trại giam để tiến hành giải quyết công chứng, chứng thực các hợp đồng, văn bản mà một bên đang chấp hành án phạt tù được thực hiện như thế nào. Do đó, khi nhận được yêu cầu công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với một trong các bên giao kết đang chấp hành án phạt tù hoặc bên yêu cầu chứng thực chữ ký trong văn bản đang chấp hành án phạt tù thì Ủy ban nhân dân cấp xã không biết giải quyết theo quy định nào, dẫn đến khó khăn vướng mắc khi giải quyết yêu cầu công chứng, chứng thực của người dân.
Do đó, pháp luật cần sơm có quy định về trình tự, thủ tục của việc công chứng, chứng thực ngoài trụ sở cơ quan, công chức chứng thực một cách cụ thể để đảm bảo cho công tác công chứng, chứng thực được thực hiện đầy đủ, đúng nhiệm vụ, bảo đảm quyền lợi của bên yêu cầu được thực thi trên thực tiễn.
TÚ VƯƠNG