Qua công tác tổng kết thực tiễn xét xử, TAND tối cao vừa có ý kiến giải đáp một số vướng mắc khi giải quyết các vụ án hình sự, vụ việc dân sự...Trang thông tin điện tử VKSND tỉnh Phú Yên trân trọng giới thiệu nội dung giải đáp để cán bộ, Kiểm sát viên VKSND hai cấp tỉnh và huyện nghiên cứu, áp dụng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
1. Điều 63 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định điều kiện được giảm mức hình phạt đã tuyên, trong đó phải có điều kiện “Bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự”. Trường hợp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, trong bản án có tuyên cha mẹ bị cáo phải bồi thường cho bị hại. Tuy nhiên, Điều 105 của Bô luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định điều kiện được giảm mức hình phạt đã tuyên đối với người dưới 18 tuổi không quy định về điều kiện phải bồi thường, nếu cha mẹ của phạm nhân không thực hiện việc bồi thường thì phạm nhân là người dưới 18 tuổi có được giảm mức hình phạt đã tuyên không (các điều kiện khác đều đảm bảo)?
Theo quy định tại Điều 105 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về giảm mức hình phạt đã tuyên đối với người dưới 18 tuổi thì không quy định điều kiện bồi thường là một trong các điều kiện được xét giảm. Do đó, việc cha mẹ của người dưới 18 tuổi không thực hiện việc bồi thường thì họ vẫn được giảm mức hình phạt đã tuyên.
2. Nguyễn Văn A có hành vi phá két sắt nhằm mục đích trộm cắp tài sản và đã lấy được số tiền 5.000.000 đồng; két sắt do Nguyễn Văn A hủy hoại có giá trị 10.000.000 đồng. Trường hợp này, Nguyễn Văn A chỉ phạm 01 tội là “Tội trộm cắp tài sản” hay phạm 02 tội là “Tội trộm cắp tài sản” và “Tội hủy hoại tài sản”.
Mặc dù Nguyễn Văn A chỉ có động cơ, mục đích là trộm cắp nhưng buộc Nguyễn Văn A phải nhận thức hành vi phá két sắt là hủy hoại tài sản của người khác. Vì vậy, hành vi của Nguyễn Văn A cấu thành 02 tội là “Tội trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 173 và “Tội hủy hoại tài sản” quy định tại Điều 178 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
3. Quy định “Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn” tại điểm a khoản 1 Điều 182 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) được hiểu như thế nào?
Quy định tại điểm a khoản 1 Điều 182 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) được hiểu là người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ mà dẫn đến hậu quả quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên ly hôn.
Theo quy định tại khoản 14 Điều 3 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án”. Theo đó, quan hệ vợ, chồng chỉ kết thúc khi có bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án.
4. Nguyễn Văn A là nhân viên của cửa hàng điện thoại di động MT do ông Trần Thanh B làm chủ, cửa hàng MT được đăng ký kinh doanh là hộ kinh doanh. Trong quá trình làm việc tại cửa hàng, Nguyễn Văn A được giao nhiệm vụ thu tiền bán thẻ điện thoại, máy điện thoại và có trách nhiệm trực tiếp quản lý tiền thu được và nộp lại cho chủ cửa hàng. Nguyễn Văn A đã lợi dụng nhiệm vụ được giao, sau khi thu tiền của khách hàng, Nguyễn Văn A không nộp về cho cửa hàng mà chiếm đoạt số tiền 20.000.000 đồng. Hành vi của Nguyễn Văn A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” hay “Tội tham ô tài sản”?
Theo khoản 6 Điều 353 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà tham ô tài sản, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều này. Theo quy định tại khoản 1 Điều 79 của Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp thì “Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình đăng ký thành lập và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của hộ...”. Theo quy định tại khoản 10 Điều 4 của Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì “doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”. Như vậy, hộ kinh doanh không phải là doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020. Do đó, hành vi nêu trên của Nguyễn Văn A cấu thành “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
5. Nguyễn Văn A vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ gây tai nạn chết người. Trong quá trình điều tra phát hiện, Nguyễn Văn A dùng giấy phép lái xe hạng B2 giả (Nguyễn Văn A cung cấp thông tin của mình cho đối tượng làm giả) để điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ.
Trường hợp này, Nguyễn Văn A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” hay “Tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu của cơ quan, tổ chức”?
Trường hợp này ngoài việc Nguyễn Văn A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội vi phạm về quy định tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), thì bị cáo còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
6. Nguyễn Văn A nhờ người làm giả căn cước công dân đứng tên người khác. Sau khi nhận được căn cước công dân giả thì Nguyễn Văn A dán ảnh của mình trên căn cước công dân đó để lừa đảo chiếm đoạt 1.800.000.000 đồng.
Trường hợp này, Nguyễn Văn A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) hay bị truy cứu trách nhiệm hình sự về 02 tội là “Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo Điều 341 và “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)?
Nguyễn Văn A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và “Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” với tình tiết định khung “Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
7. Một người có một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 158 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) trong thời gian bao lâu thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trường hợp con ở cùng nhà với cha mẹ (nhà thuộc quyền sở hữu của cha mẹ) mà đuổi cha mẹ ra khỏi nhà thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội xâm phạm chỗ ở của người khác” theo quy định tại Điều 158 của Bộ luật Hình sự không?
Điều 158 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) không quy định xâm phạm chỗ ở của người khác trong thời gian bao lâu thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Do đó, người nào thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 158 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
Trường hợp con ở chung với cha mẹ mà đuổi cha mẹ ra khỏi nhà, thì hành vi này bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội ngược đãi hoặc hành hạ cha mẹ” theo quy định tại Điều 185 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
8. Đối với các tội phạm thực hiện hành vi vi phạm kéo dài thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ thời điểm nào, ngày tội phạm thực hiện hay ngày hành vi bị phát hiện?
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp nêu trên được xác định như sau: Trường hợp hành vi phạm tội kéo dài đã kết thúc thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ thời điểm tội phạm kết thúc; trường hợp hành vi phạm tội kéo dài chưa kết thúc thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ thời điểm hành vi tội phạm bị phát hiện.
9. Tại khoản 6 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định “Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”. Trường hợp này có phải xác định cụ thể đối tượng mà bị cáo nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hay không?
Theo Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020 của Tòa án nhân dân tối cao thì quy định nêu trên không bắt buộc người phạm tội phải hoàn thành hành vi khách quan là gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và cũng không bắt buộc phải có hậu quả xảy ra. Tuy nhiên, trường hợp này, để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 6 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì phải xác định được người mà bị cáo nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe.
10. Theo quy định tại khoản 2 Điều 36 của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam năm 2019 thì người được hoãn chấp hành án phạt tù, người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, người được tha tù trước thời hạn có điều kiện trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo trong thời gian thử thách, người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ trong thời gian chấp hành án theo quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2019 thì bị tạm hoãn xuất cảnh. Vậy Tòa án có phải ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh đối với các trường hợp trên hay không? Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021), Luật Thi hành án hình sự năm 2019 không quy định nội dung này?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 37 của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam năm 2019 thì thẩm quyền quyết định tạm hoãn xuất cảnh, gia hạn, hủy bỏ tạm hoãn xuất cảnh là cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hoãn chấp hành án phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, tha tù trước thời hạn có điều kiện, thi hành án treo, thi hành án phạt cải tạo không giam giữ.
Đây là quy định mới của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam năm 2019. Mặc dù, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021), Luật Thi hành án hình sự năm 2019 chưa quy định thủ tục này. Tuy nhiên, để bảo đảm áp dụng quy định này kịp thời, góp phần ngăn chặn, phòng ngừa việc trốn tránh nghĩa vụ chấp hành án của người bị kết án, khi ra quyết định hoãn chấp hành án phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, tha tù trước thời hạn có điều kiện, thi hành án treo, thi hành án phạt cải tạo không giam giữ, Tòa án bổ sung nội dung tạm hoãn xuất cảnh trong quyết định.
11. Sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam 45 ngày để đảm bảo thi hành án, bị cáo và những người tham gia tố tụng không kháng cáo. Tuy nhiên, chưa đến ngày ra quyết định thi hành án thì có tài liệu chứng minh bị cáo đang bị bệnh hiểm nghèo, suy tim độ III có thể dẫn đến tử vong, phải nhập viện điều trị, gia đình bị cáo xin bảo lĩnh để tiếp tục điều trị bệnh cho bị cáo. Vậy trường hợp này, thẩm quyền giải quyết như thế nào?
Trường hợp nêu trên, người bị tạm giam vẫn phải thi hành Quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử. Nếu bị cáo đang bị bệnh hiểm nghèo, suy tim độ III có thể dẫn đến tử vong phải nhập viện thì gia đình phải liên hệ ngay với cơ quan quản lý thi hành tạm giữ, tạm giam để thực hiện thủ tục liên quan đến trích xuất đưa đi khám bệnh, chữa bệnh theo quy định tại Điều 20 của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015.
12. Nguyễn Văn A gửi xe ô tô tại địa điểm do Nguyễn Văn B quản lý, được phép hoạt động, có thu tiền gửi xe. Nguyễn Văn C đã lấy trộm xe ô tô của Nguyễn Văn A. Trường hợp này xác định ai là bị hại?
Trường hợp này, Nguyễn Văn A là bị hại vì xe ô tô thuộc sở hữu của A, Nguyễn Văn B là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
13. Bị cáo Nguyễn Văn A bị xét xử sơ thẩm và tuyên án ngày 01/3/2023. Ngày 07/3/2023, Nguyễn Văn A kháng cáo đối với bản án sơ thẩm. Ngày 10/3/2023, Nguyễn Văn A có đơn xin rút kháng cáo. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa ra thông báo về việc kháng cáo. Trường hợp này, Tòa án cấp sơ thẩm xử lý như thế nào, có chuyển hồ sơ đến Tòa án cấp phúc thẩm không?
Trường hợp này, Tòa án cấp sơ thẩm vẫn phải chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án cấp phúc thẩm để giải quyết theo thẩm quyền... (còn nữa)
GIANG HÀ