Ngày 25/3/2004, Tổng Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam phê duyệt cho Công ty Công nghiệp Nông thuỷ sản Phú Yên được góp vốn từ nguồn vốn tự có của công ty để thành lập Công ty cổ phần Tân Hưng. Ngày 20/4/2004, Sở Kế hoạch và Đầu tư Phú Yên cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, vốn điều lệ 3.000.000.000đ, có 04 cổ đông sáng lập, trong đó Công ty Công nghiệp Nông thuỷ sản Phú Yên là doanh nghiệp Nhà nước thuộc Tổng Công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam đăng ký góp vốn 1.650.000.000đ bằng 16.500 cổ phần, chiếm 55% vốn điều lệ, các cổ đông khác góp vốn chiếm 45% vốn điều lệ.
Ngày 01/11/2004, Ngô Văn Ký được Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Tân Hưng bổ nhiệm giữ chức vụ phụ trách phòng tài vụ Công ty, ngày 29/5/2009 được bổ nhiệm kế toán trưởng công ty, kiêm phụ trách kế toán chi nhánh công ty tại huyện Tuy An.
Từ tháng 03/2008 đến tháng 3/2011, Ngô Văn Ký đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nhiệm vụ được giao thu tiền mặt bán hàng và thu nợ các khách hàng của chi nhánh công ty tại Tuy An: 94.934.138đ, thu của Công ty Vật tư tổng hợp Phú yên: 257.199.865đ, thu của DNTN An Phát (TP. Tuy Hòa): 19.394.325đ, thu của Công ty TNHH Đức Kính (Đông Hoà): 5.091.000đ, thu của ông Trần Bình Trọng 1.250.000đ, thu của bà Văn Thị Thi Thơ 2.432.000đ, ngoài ra Ký thu tiền của nhiều khách hàng khác vào các ngày thứ 7, chủ nhật số tiền 191.000.000đ (năm 2008: 90.000.000đ, năm 2009: 30.000.000đ, năm 2010: 71.000.000đ), Ký chiếm đoạt sử dụng cá nhân số tiền 571.302.317đ.
Từ tháng 3/2008 đến tháng 12/2010, Nguyễn Bảo Toàn được giám đốc công ty giao nhiệm vụ thủ quỹ, có trách nhiệm thu tiền bán hàng khi khách hàng nộp tiền mặt tại công ty, lợi dụng nhiệm vụ quyền hạn được giao Toàn đã thu của 62 khách hàng số tiền 375.099.639đ Toàn chiếm đoạt sử dụng cá nhân số tiền 206.540.561đ .
Để tránh sự phát hiện của lãnh đạo công ty, Ký và Toàn thống nhất lập phiếu chi khống số 225 ngày 10/12/2008 và số 229 ngày 22/12/2008 thể hiện Nguyễn Bảo Toàn đã nộp số tiền 92.000.000đ và số tiền 43.000.000đ vào tài khoản tiền gửi của công ty mở tại Chi nhánh ngân hàng NN&PTNT Nam TP. Tuy Hoà và báo cáo khách hàng còn nợ công nợ chưa thu.
Đầu năm 2011 sự việc bị phát hiện, Ký và Toàn thừa nhận hành vi lấy tiền quỹ của công ty sử dụng cá độ bóng đá, đá gà và sử dụng cá nhân.
Ngày 20/6/2012, Toà án nhân dân tỉnh Phú Yên đã áp dụng điểm a, khoản 4, Điều 278; điểm b, p khoản 1; khoản 2 Điều 46, 47, điểm g, i, khoản 1, điều 48 BLHS xử phạt: Ngô Văn Ký 15 năm tù; Áp dụng điểm a, khoản 3, Điều 278; điểm b,p khoản 1; khoản 2 Điều 46, 47, điểm g, i, khoản 1, điều 48 BLHS xử phạt: Nguyễn Bảo Toàn 07 năm tù đều về tội Tham ô tài sản.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Ngô Văn Ký có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo Nguyễn Bảo Toàn có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
Ngày 29/8/2012, Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân Tối cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm đã giữ nguyên án sơ thẩm 15 năm tù đối với bị cáo Ngô Văn Ký. Đối với bị cáo Nguyễn Bảo Toàn, HĐXX nhận định: Công ty Tân Hưng xuất trình chứng cứ mới là giấy xác nhận của giám đốc công ty, xác nhận do nhầm lẫn nên đã báo cáo bị Toàn chiếm đoạt 206.540.561đ, nay qua kiểm tra lại xác định chính xác Toàn chiếm đoạt 194.239.914đ. Từ đó, đã sửa án sơ thẩm, xử phạt bị cáo Nguyễn Bảo Toàn 03 năm tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Qua nghiên cứu bản án phúc thẩm, VKSND tỉnh Phú Yên thấy rằng: Việc Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân Tối cao tại Đà Nẵng tuyên sửa bản án sơ thẩm, chuyển khung hình phạt, giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo Nguyễn Bảo Toàn được hưởng án treo là không có căn cứ và sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật. Bởi lẽ:
Kết quả điều tra và tại phiên toà sơ thẩm đã xác định Nguyễn Bảo Toàn được giám đốc công ty giao nhiệm vụ thủ quỹ, có trách nhiệm thu tiền bán hàng khi khách hàng nộp tiền mặt tại công ty, lợi dụng nhiệm vụ quyền hạn được giao Toàn đã thu của 62 khách hàng số tiền 375.099.639đ. Thủ đoạn của bị cáo Toàn lấy tiền mặt trực tiếp từ quỹ công ty, không ghi chép, không tiến hành theo dõi trên sổ sách. Qua kiểm tra, đối chiếu công nợ với khách hàng, trên cơ sở các chứng từ, tài liệu kế toán của công ty được thu thập có tại hồ sơ vụ án, CQĐT đã xác định được đầy đủ, rõ ràng tên, địa chỉ của 62 khách hàng, số, ngày của phiếu xuất kho, số hóa đơn, số tiền theo phiếu xuất kho, số tiền đã thu nộp quỹ, số tiền thu không nộp quỹ. Các số liệu này đã được ông Trần Công Lính nguyên là giám đốc công ty, bị cáo Ngô Văn Ký nguyên là kế toán trưởng kiểm tra, đối chiếu và đều ký tên xác nhận trên tài liệu. Suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử ở cấp sơ thẩm, số liệu của các bị cáo đã chiếm đoạt là chính xác, cấp sơ thẩm đã quy kết Nguyễn Bảo Toàn chiếm đoạt sử dụng cá nhân số tiền 206.540.561đ. Hành vi của Nguyễn Bảo Toàn phạm tội tham ô tài sản và áp dụng điểm a, khoản 3, điều 278 BLHS, các tình tiết giảm nhẹ như khắc phục hậu quả 206.540.561đ, khai báo thành khẩn quy định tại điểm b, p khoản 1 Điều 46 BLHS và áp dụng Điều 47 BLHS xử phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và tuyên phạt bị cáo Toàn mức án 07 năm tù mức khởi điểm Khoản 2 Điều 278 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.
Việc bản án phúc thẩm nhận định: Công ty Tân Hưng xuất trình chứng cứ mới là giấy xác nhận của giám đốc công ty, xác nhận do nhầm lẫn nên đã báo cáo bị Toàn chiếm đoạt 206.540.561đ, nay qua kiểm tra lại xác định chính xác Toàn chiếm đoạt 194.239.914đ, đồng thời xuất trình phiếu thu số tiền 12.300.647đ. Nhưng thực tế công ty không có mặt tại phiên tòa phúc thẩm, việc xuất trình công văn do bị cáo chứ không phải công ty như án phúc thẩm nhận định.
Về thực chất công văn của công ty do bị cáo xuất trình gọi là tình tiết mới phát sinh tại phiên tòa phúc thẩm: Qua xác minh ông Nguyễn Định- Giám đốc Công ty cổ phần Tân Hưng xác định Công ty cổ phần Tân Hưng không được triệu tập đến phiên tòa phúc thẩm và công ty cũng không cử ai tham gia phiên tòa phúc thẩm. Về căn cứ và nội dung công văn số 34/CV ngày 28/8/2012 của Công ty cổ phần Tân Hưng, ông Định cho biết vào ngày 28/8/2012 có ông Nguyễn Đình Phước (cha của bị cáo Toàn) và bị cáo Toàn có đến văn phòng công ty, mang một công văn đã soạn sẵn nội dung giảm số tiền Toàn chiếm đoạt từ 206.540.561đ xuống còn 194.239.914đ, nói với ông Định có người hướng dẫn làm công văn này, nhờ công ty xác nhận bằng công văn để gửi Tòa phúc thẩm TAND Tối cao; Viện THQCT và Kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Đà Nẵng, do tình nghĩa với gia đình của Toàn là người có cổ phần trong công ty, nên ông Định đã ký công văn số 34/CV với nội dung được soạn sẵn có nội dung nêu trên đưa cho ông Nguyễn Đình Phước, ngoài ra không đưa chứng từ nào khác. Ông Nguyễn Định thừa nhận nội dung công văn là không đúng sự thật, số tiền bị cáo Toàn chiếm đoạt thực tế là 206.540.561đ. Qua làm việc công ty cung cấp không có chứng từ thu tiền nào có số tiền 12.300.647đ như bản án phúc thẩm nhận định, không có sự việc nhầm lẫn số tiền như công văn số 34/CV công ty xác nhận được xuất trình tại phiên tòa phúc thẩm.
Với những phân tích, thấy rằng hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Bảo Toàn chiếm đoạt 206.540.561đ, đủ yếu tố cấu thành tội tham ô tài sản theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 278 BLHS mà bản án hình sự sơ thẩm số 14/2012/HSST ngày 20/6/2012 của Toà án nhân dân tỉnh Phú Yên đã tuyên phạt bị cáo Toàn về trách nhiệm hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Bản án phúc thẩm số 289/2012/ HSPT ngày 29/8/2012 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân Tối cao tại Đà Nẵng đã đánh gía tài liệu, chứng cứ của vụ án không khách quan, không toàn diện, việc chấp nhận chứng cứ mới chưa được thẩm tra, xác minh, dẫn đến việc quy kết số tiền bị cáo chiếm đoạt thấp hơn không đúng bản chất của vụ án là không đúng pháp luật, từ đó đã tuyên sửa một phần bản án sơ thẩm giảm án và cho bị cáo Nguyễn Bảo Toàn được hưởng án treo là không có căn cứ.
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên đã có báo cáo đề nghị Viện kiểm sát nhân dân Tối cao xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án hình sự phúc thẩm số 289/2012/HSPT ngày 29/8/2012 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân Tối cao tại Đà Nẵng theo hướng huỷ một phần bản án phúc thẩm liên quan đến trách nhiệm hình sự, phần hình phạt của bị cáo Nguyễn Bảo Toàn, để xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật, không cho bị cáo được hưởng án treo.
Sau đó, VKSNDTC kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên và Hội đồng thẩm phán TANDTC đã xét xử, chấp nhận kháng nghị của VKSNDTC huỷ một phần bản án hình sự phúc thẩm số 289/2012/HSPT ngày 29/8/2012 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân Tối cao tại Đà Nẵng ( phần hình phạt của bị cáo Nguyễn Bảo Toàn), để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật, không cho bị cáo Toàn được hưởng án treo.
Vừa qua, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân Tối cao tại Đà Nẵng đã mở phiên tòa xét xử lại, HĐXX nhận định: Có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Bảo Toàn đã chiếm đoạt số tiền 206.540.561đ. Hành vi phạm tội của bị cáo đã bị truy tố, xét xử về tội tham ô tài sản theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 278 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt, HĐXX thấy rằng, bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất vụ án, mức độ phạm tội, án sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án 07 năm tù là mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề là đã chiếu cố cho bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Toàn và giữ nguyên án sơ thẩm. Từ đó, HĐXX đã tuyên phạt bị cáo Nguyễn Bảo Toàn 07 năm tù về tội tham ô tài sản.
GIANG HÀ